Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

Kiều bào viếng nghĩa trang Bình An -Nghĩa trang lính VNCH chết trận

Kiều bào viếng nghĩa trang Bình An:"Đối diện với sự thật, chúng tôi thấy xấu hổ"


 Trước đó, đoàn kiều bào đã đi thăm Trường Sa và tổ chức lễ cầu siêu tưởng niệm các thế hệ người VN đã   hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Trưa 27-4, đoàn các kiều bào đi thăm quần đảo Trường Sa và tổ chức lễ cầu siêu tưởng niệm các thế hệ người Việt Nam đã hy sinh thân mình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và đồng bào ta, bạn bè quốc tế tử nạn trên biển, đã trở về lại TP.HCM. Ngay trong chiều 27-4, đoàn công tác đã đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ Bình Dương và Nghĩa trang nhân dân Bình An (nghĩa trang quân đội Biên Hòa thời Việt Nam Cộng hòa).
Khi vào đến Nghĩa trang liệt sĩ Bình Dương, ông Nguyễn Ngọc Lập, nguyên thiếu úy thủy quân lục chiến quân đội Việt Nam Cộng hòa (Việt kiều California) và nhiều đại biểu đã thành kính thắp nhang tại bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các liệt sĩ.
Sau đó, các đại biểu đi thăm những ngôi mộ của những người lính cộng hòa nằm nghỉ tại Nghĩa trang nhân dân Bình An. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, trưởng đoàn công tác, đã cùng đoàn đại biểu đã đến viếng nhiều ngôi mộ. Trong đó có những bia mộ có hình ảnh người đã khuất, lúc sinh thời mặc quân phục Việt Nam Cộng hòa. Ông Sơn chỉ vào một ngôi mộ và nói: “Đây là ngôi mộ các anh làm từ năm 1975, người dân đã quét vôi lại cho các anh”. Chỉ vào tấm bia mộ cũ mang tên hạ sĩ Hà Hữu Lộc, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 43, Sư đoàn 78, ông Sơn tiếp: “Bia mộ vẫn còn nguyên phiên hiệu, đơn vị…Những ngôi mộ thế này xây từ ngày xưa có ai phá đâu. Chân lý ở đâu, sự thật ở chỗ nào khi các anh cứ hô hào, kêu gọi chống cộng, nói rằng cộng sản không làm gì cho nghĩa trang. Trong khi đồng đội quý vị nằm đây, một cent quý vị cũng không đóng góp. Nếu đất nước không có đại đoàn kết thì những ngôi mộ kia có còn những tấm bia nguyên vẹn như vậy không?”.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn (thứ hai từ phải sang) và các kiều bào thăm mộ ở Nghĩa trang Bình An. Ảnh: TM
“Đồng đội của ông Nguyễn Ngọc Lập đây, phần mộ còn nguyên. Chúng tôi trân trọng và để lại tất cả những gì còn trước năm 1975. Nếu nhân dân không tôn trọng, không lấy nghĩa đồng bào, nghĩa tử là nghĩa tận… thì làm gì còn mộ như thế này. Các vị cứ nói cộng sản tàn phá trong khi nghĩa trang thì còn nguyên mộ. 40 năm nay nếu không có nhân dân địa phương chăm sóc, vun đắp thì mộ có còn không? 40 năm nay tấm bia này vẫn nguyên vẹn nằm đây, có ai phá phách không? Quý vị ra hỏi người dân đang làm mộ ngoài kia, có ai phá họ không?”.
Trước những câu hỏi dồn dập của thứ trưởng, ông Nguyễn Ngọc Lập, nguyên thiếu úy thủy quân lục chiến quân đội Việt Nam Cộng hòa (Việt kiều California), mới lên tiếng: “Từ đầu đến cuối tôi im lặng vì tôi xấu hổ. Chúng tôi cảm thấy đau lòng và nhục nhã. Chúng tôi xin đồng bào mỗi khi đi về Việt Nam thì chỉ cần mỗi người một đôla là đủ xây mộ cho nơi này rồi. Hôm nay tôi không phải đến đây để đối thoại mà chúng tôi đến để đối diện với sự thật. Chúng tôi cảm thấy xấu hổ”.
Thứ trưởng Sơn tiếp lời: “Quý vị có thấy một sự thật là những ngôi mộ có thân nhân chăm sóc thì xây rất đẹp đẽ khang trang. Những ngôi mộ được xây từ trước năm 1975 đến giờ vẫn giữ nguyên. Tất cả ngôi mộ không có thân nhân chăm sóc đều được ban quản lý nghĩa trang đắp lại hằng năm không để lún sụt. Mộ vẫn được đắp lại, hương vẫn được thắp vì còn dấu tích chân nhang… . Quý vị hãy dũng cảm nhìn vào sự thật để thấy rằng những người nằm đây đã bị chính đồng đội của họ lãng quên chứ nhân dân địa phương không quên họ”.
 Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: Chúng ta đang làm một việc  chính nghĩa.

 Chuyến đi đến với Trường Sa và thềm lục địa phía nam vừa rồi hết sức ý nghĩa và thành công to lớn. Không chỉ có các tổ chức của các cơ quan đoàn thể trong nước mà còn có đại diện bà con hải ngoại về. Trong đó có những người trước đây còn có tư tưởng chống đối quyết liệt. Ra Trường Sa, họ thấy được sự trung thực của chúng ta trong vấn đề tuyên truyền. Thực tế chúng ta đã chứng minh cho bà con thấy được chúng ta giữ được toàn vẹn lãnh thổ. Tôi không hiểu họ lấy thông tin chúng ta đã bán đất cho nước ngoài ở chỗ nào. 

Những kiều bào đã nghe lời khuyên của chúng tôi và trở về, có người trở về để hy vọng tìm thấy điều cực đoan mà họ muốn. Nhưng khi bước chân ra Trường Sa và về viếng nghĩa trang, họ đã đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác, từ xúc động này đến xúc động khác. Bởi vì chúng ta đang làm một việc rất chính nghĩa: Đang làm thay họ bảo vệ toàn vẹn lãnh hải, lãnh thổ ông cha để lại, thay họ làm cho những đồng đội của họ nằm đây được mồ yên mả đẹp, thay họ để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống của ông cha chúng ta: Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo.
 1. “Tôi muốn xem có giả dối nào không… nhưng ngược lại hoàn toàn”

 Trong quá khứ, tôi rất cực đoan với Nhà nước. Tôi muốn đến Trường Sa vì lý do duy nhất: Coi Nhà nước này có giấu giếm gì không vì tôi nghe rất nhiều rằng biển Đông biến động, không có an ninh, rằng Nhà nước Việt Nam đã dâng biển, đảo cho nước ngoài. Tôi nhất quyết phải về để tận mắt nghe, thấy. Chuyến đi 10 ngày để tìm coi có một vết tích nào giả dối hay không, quả thật là không hề có mà ngược lại còn tuyệt vời hơn những gì tôi ước định trong đầu. Đến Trường Sa, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ các công trình kiến trúc rất vững chắc cho đến cuộc sống vui tươi của quân dân trên đảo… Với tất cả chiến sĩ mà tôi đã gặp, họ có một ý chí sắt đá vô cùng với tinh thần tất cả cho Tổ quốc. Tôi nói với chiến sĩ Trường Sa rằng khi cần, hãy cho phép tôi được đứng chung trong hàng ngũ của anh em để sẵn sàng bảo vệ quần đảo tươi đẹp này. 

Luật sư DAVID NGUYỄN, Trưởng ban vận động và tổ chức bầu cử hội đồng đại diện cộng đồng người Việt quốc gia Houston và vùng phụ cận.
 2. Một chuyến đi thấy được rất nhiều điều:

 Lễ tưởng niệm này tưởng niệm những người của hai bên đã nằm xuống ở Gạc Ma và Hoàng Sa, tức không phân biệt ở chế độ nào, đã biểu hiện rõ tinh thần đại đoàn kết và hòa giải dân tộc. Điểm thứ hai là tưởng niệm tất cả những người đã ngã xuống trên biển Đông, những thuyền nhân tử nạn trên biển, những người làm việc ở các nhà giàn… Thể hiện đạo lý dân tộc rất cao lớn. Trang sử Việt Nam đã bước qua trang mới rồi, trang sử cũ từ từ khép lại. Quên đi những trang sử đau khổ của Việt Nam, mà hãy phát triển Việt Nam, muốn vậy phải giải quyết khối đại đoàn kết của người Việt trong nước và người Việt ở hải ngoại. Hòa giải hòa hợp lẫn nhau. Chỉ có một con đường duy nhất cho hòa giải dân tộc, đó là lấy đạo lý dân tộc và vì dân tộc là trên hết. Ông Võ Văn Kiệt từng nói sau ngày miền Nam mất: “Triệu người vui cũng có triệu người buồn”. Bây giờ sẽ không còn những người buồn nữa mà là đã mang lại niềm vui cho cả dân tộc. Điển hình nhất là chuyến hải trình vừa rồi đã cụ thể hóa chương trình hòa hợp dân tộc, để kiều bào về tận mắt chứng kiến người lính đã kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió bảo vệ chủ quyền Tổ quốc như thế nào. Đồng thời nhìn thấy sự toàn vẹn lãnh thổ như thế nào.

(Nhà báo LÝ KIẾN TRÚC, Câu lạc bộ văn hóa và báo chí quận Cam.)
3. Thấy nhiều lời đồn không có căn cứ

Tôi lớn tuổi nhất đoàn, 81 tuổi. Sau chuyến đi, điều tôi yên tâm nhất là biết được Nhà nước quyết tâm bảo vệ Trường Sa và luôn khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Tất cả chiến sĩ đều nói cùng một tiếng nói là sẽ mềm mỏng nhưng nếu cần sẽ kiên quyết chống trả. Do đó, luận điệu Việt Nam đã dâng đất, dâng biển cho nước ngoài là không có căn cứ.

(Ông BÙI DUY TÂM, Việt kiều Mỹ)
                                                                                                            (Theo Pháp Luật TP.HCM)

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Những người không có tư cách nói về “tự do báo chí” ở Việt Nam

QĐND - Nhân sự kiện một số nhà hoạt động gọi là "tự do và nhân quyền" của Việt Nam tới Hoa Kỳ, theo lời mời của các dân biểu Hoa Kỳ và một số tổ chức cổ xúy cho cái gọi là "tự do thông tin", Tổng biên tập trang mạng Viethaingoai.net tại Mỹ, ông John Lee, bút danh Amari tx, từ Houston đã dành riêng cho Báo Quân đội nhân dân bài viết, trong đó cho rằng, những nhà hoạt động này không có tư cách để nói về tự do báo chí ở Việt Nam... Báo Quân đội nhân dân xin được trích đăng.
Tưởng việc này chẳng ai quan tâm bởi mấy nhà hoạt động kiểu này sang Hoa Kỳ để làm mấy cái chuyện gây bất lợi cho Việt Nam đâu phải lần đầu tiên. Chuyến đi dù được tổ chức nhân Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) cho có vẻ khách quan nhưng cũng chẳng che giấu được ý đồ bôi nhọ, xuyên tạc Việt Nam của cả người mời lẫn người được mời. Vì đứng ra tổ chức và đài thọ cho các khách mời từ Việt Nam này không ai khác lại là một số cơ quan, tổ chức khét tiếng chống phá Việt Nam như Đài Châu Á tự do, Tổ chức Phóng viên không biên giới hay Đảng Việt Tân… Còn các "nhà hoạt động" có tên Nguyễn Thị Kim Chi, Ngô Nhật Đăng, Nguyễn Đình Hà, Tô Oanh và Lê Thanh Tùng chỉ là những cây viết tự do, không tên tuổi, chưa nói tới vấn đề tư cách hay đạo đức nghề nghiệp vì đã lợi dụng facebook hay blog để tuyên truyền những nội dung đi ngược lại lợi ích của chính quê hương mình.
Đông đảo phóng viên tác nghiệp tại buổi khai mạc Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Ảnh: Minh Trường.
Để xem họ làm gì ở Hoa Kỳ? Nghe đâu các khách mời này được tham gia một loạt sinh hoạt như điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ, thảo luận về những thử thách của việc khởi động một nền báo chí độc lập tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các “nhà” này còn được mời tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, LHQ, một số dân biểu Mỹ, các tổ chức nhân quyền, công ty tin học, tham gia khóa huấn luyện về truyền thông và an ninh mạng. Tiếp xúc với một loạt cơ quan, tổ chức quan trọng bàn về một vấn đề quan trọng như thế, với bảng “thành tích đen” chống phá Việt Nam cùng trình độ có hạn như vậy, chẳng hiểu các vị khách mời đó lấy tư cách gì mà "đòi" tự do cho nền báo chí Việt Nam - nơi có nền báo chí được đánh giá là đang phát triển nhanh chóng?
Ở đây, cần làm rõ thực chất cái gọi là "tự do báo chí" của phương Tây và thực trạng hoạt động báo chí của Việt Nam hiện nay. Đối với báo chí phương Tây, tuy không can thiệp vào hoạt động báo chí, nhưng luật pháp của các quốc gia đều có những quy định nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của báo chí. Chẳng hạn, các chính phủ đều phân biệt những thông tin nào được phép phổ biến cho công chúng và những thông tin nào thuộc loại phổ biến hạn chế hay tuyệt mật, không thể tiết lộ với mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia. Hơn nữa, hầu hết các tổ chức làm báo của phương Tây đều tự đưa ra những quy định của tổ chức mình và yêu cầu những người thuộc tổ chức phải tuân thủ, chẳng hạn những tiêu chuẩn của việc hành nghề, hay còn gọi là hệ thống đạo đức báo chí. Mặt khác, các quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ cũng ban hành nhiều luật lệ nhằm ngăn ngừa sự vi phạm của người làm báo trong lúc hành nghề.
Bất chấp tự do tư tưởng, báo chí phương Tây đã bị các chính phủ phương Tây biến thành công cụ để bành trướng, áp đặt quan điểm phương Tây trên quy mô toàn cầu. Nhiều triệu đô-la đã và đang được đổ ra để phát triển một hệ thống báo chí hùng hậu nhằm quấy nhiễu tư tưởng ở tất cả các nước không cùng quan điểm. Diễn biến thế giới gần đây đã phản ánh khá sinh động điều ấy. Bằng cái gọi là “tự do báo chí”, một số cơ quan báo chí phương Tây đã thổi phồng lên các chiêu bài “chống khủng bố”, “săn lùng vũ khí hủy diệt", kiếm cớ “hợp pháp” để can thiệp quân sự một cách thô bạo vào những quốc gia có chủ quyền, ở nơi mệnh danh là mỏ “vàng đen” của thế giới.
Hẳn mọi người chưa thể quên báo chí phương Tây đã nhất loạt thổi phồng và làm rùm beng cái gọi là “nguy cơ I-rắc sở hữu và chế tạo vũ khí giết người hàng loạt”, rồi còn đưa tin I-rắc mua plutoni của một nước châu Phi để chế tạo bom hạt nhân. Tất cả chỉ nhằm phục vụ cho mưu đồ can thiệp bằng quân sự một cách thô bạo, bất chấp luật pháp quốc tế hòng chiếm đoạt và bảo vệ các lợi ích của những thế lực đứng đằng sau điều khiển những “công cụ” tuyên truyền nguy hiểm này. Đến khi cuộc chiến tranh I-rắc nổ ra, nhiều hãng thông tấn, nhiều tờ báo đưa tin không hợp “khẩu vị” của họ thì bị cấm đưa tin, bị kiểm duyệt. Chính quyền Mỹ đã kiểm soát rất chặt chẽ các báo, đài đưa tin chiến sự, họ chỉ đồng ý cho những hãng thông tấn, báo chí nào tuân theo những “Luật” do họ đặt ra. Những nhà báo đưa tin về sự thật tàn bạo của quân đội Mỹ gây ra đối với dân thường đã bị đe dọa.
Như vậy thì làm gì có cái gọi là “tự do báo chí” nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ như một số nước phương Tây vẫn tuyên bố và thúc đẩy. Đó thực chất chỉ là sử dụng báo chí để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của họ. Đó chính là thứ tự do giả dối, lừa gạt dư luận, thủ tiêu vai trò của báo chí chứ đâu phải vì tự do báo chí.
Đối với hoạt động báo chí ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định rõ quyền tự do báo chí. Mọi hoạt động báo chí đều phải phục vụ sự tiến bộ, công bằng xã hội, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Luật Báo chí chỉ cấm các hoạt động báo chí đi ngược lại lợi ích tối cao của đất nước là độc lập, tự do của dân tộc, thành quả kết tinh sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam mới giành được. Luật Báo chí cấm các hành động tuyên truyền chống lại con người. Luật Báo chí Việt Nam khẳng định, báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,… mà còn là diễn đàn tin cậy của người dân.
Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc. Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội.
Rõ ràng, ở Việt Nam, vai trò của báo chí ngày càng được khẳng định trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nên không thể có cái gọi là “báo chí mất tự do” ở Việt Nam. Càng không thể coi sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam là cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Đó chỉ là luận điệu của các vị chuyên hành nghề “vu khống” dựa trên một mớ những cái gọi là “bằng chứng” của một số người có tư tưởng xuất phát từ mưu đồ cá nhân, mưu toan quyền lực, với não trạng luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc. Âu cũng là vì họ mong nhận được hậu thuẫn của các thế lực từ bên ngoài về tinh thần lẫn vật chất.
Ở Việt Nam có một số người cơ hội chính trị đã kết bè với nhau và liên kết với các tổ chức chống cộng cực đoan, các tổ chức thù địch với Việt Nam để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ viết báo, hồi ký phát tán ra ngoài với những lời lẽ hằn học, bêu riếu, vu cáo, nhổ toẹt vào những hy sinh vô cùng to lớn của các thế hệ đi trước, trong đó có cả những người thân của họ trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Họ rên rỉ rằng, ở đất nước này không có “tự do báo chí”, rằng thì phải “viết báo trong vòng kìm kẹp của luật”… Nên dù có khoác lên người chiếc “áo” mỹ miều “tự do báo chí” thì cũng không che giấu được bản chất đen tối, xấu xa thật sự bên trong.
                                                                                                                                                                      AMARI TX (Houston)

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

BA MƯƠI CHÍN NĂM - CHÍNH QUYỀN TAY SAI Ở SÀI GÒN SỤP ĐỔ


Sự sụp đổ tất yếu của một chế độ Bù nhìn, Bán nước
Thất bại tất yếu của một đội quân đánh thuê, chư hầu !

Tháng 4-1975, bằng tất cả ý chí và quyết tâm, sau mấy chục năm chiến đấu hy sinh gian khổ dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Thế nhưng mấy chục năm qua, vẫn có một số người không dám nhìn thẳng vào sự thật, vẫn đưa ra một số luận điệu nhằm bao biện cho thất bại.


Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã diễn ra nhiều sự kiện phức tạp trên mặt trận quân sự, kéo theo sự phức tạp trên chính trường thế giới. Nhưng dù phức tạp như thế nào thì không ai có thể bác bỏ một sự thật rõ ràng, hiển nhiên là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam và sự sụp đổ tất yếu của chính quyền Sài Gòn. Vậy mà sau gần 40 năm, vẫn có người đặt câu hỏi "Có phải chính quyền Sài Gòn sụp đổ vì bị Mỹ "bỏ rơi"?" để bao biện cho thất bại. Câu hỏi này dựa vào ý kiến của một số người từng một thời giữ vai trò quan trọng trong chính phủ Mỹ cho rằng họ đã thắng trong chiến tranh (!). Như cựu tổng thống R. Nixon coi việc chính quyền Sài Gòn sụp đổ là do Quốc hội Mỹ không cho G. Ford quyền sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ nam Việt Nam như Nixon đã hứa với Nguyễn Văn Thiệu trước đó, không những thế, Quốc hội Mỹ còn bác đề nghị chi 722 triệu USD cứu nam Việt Nam (!). Còn H. Kissinger thì cho rằng thảm kịch của Mỹ là do tình hình nội bộ của Mỹ (ý nói vụ Watergate), nếu không có sự kiện này, R. Nixon đã có thể hạ lệnh ném bom quân bắc Việt ngay từ tháng 4-1973! Tuy nhiên, chính H. Kissinger cũng phải thừa nhận đã đánh giá sai về sự sẵn sàng của nhân dân Mỹ trong việc ủng hộ sự can thiệp của Mỹ. Trong cuốn Không hòa bình, chẳng danh dự, Nixon, Kissinger và sự phản bội ở Việt Nam GS L. Berman dẫn lời R. Nixon, H. Kissinger rằng, họ có thể nhìn thấy nam Việt Nam thất bại nhưng lại muốn thất bại đó không diễn ra trong nhiệm kỳ của mình; R. Nixon muốn một tình trạng bế tắc vô hạn định bằng cách sử dụng B.52 bảo vệ nam Việt Nam đến hết nhiệm kỳ tổng thống; Hiệp định Paris có thể sẽ tạo cớ cho Mỹ can thiệp vào nam Việt Nam, tuy nhiên vụ Watergate đã làm hỏng những toan tính đó,...!
Những người đặt câu hỏi: "Có phải chính quyền Sài Gòn sụp đổ vì bị Mỹ "bỏ rơi"?" đã không quan tâm tới ý kiến của rất nhiều học giả và nhà nghiên cứu khẳng định thất bại của chính quyền Sài Gòn là không tránh khỏi. Như F. Snepp viết trong cuốn Một khoảng thời gian thích đáng thì Hiệp định Paris chỉ là hình thức bỏ chạy của Mỹ, các vấn đề còn lại của chiến tranh không được giải quyết. Sau ngày chiến tranh kết thúc, xuất hiện tiếng nói giận dữ và oán hận từ phía Nguyễn Văn Thiệu và phụ tá thân cận của ông ta cho rằng họ thua trận vì bị Mỹ phản bội và bỏ rơi, thậm chí cho rằng nam Việt Nam thua trận vì vừa phải đối phó với bắc Việt, lại vừa phải đối phó với đồng minh của mình! Trong cuốn Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập, Nguyễn Tiến Hưng - Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chính quyền Sài Gòn, người được Nguyễn Văn Thiệu phái đi cầu viện lần cuối cùng, đã công bố một số bức thư R. Nixon gửi Thiệu. Trong một bức thư ngày 14-11-1972, R. Nixon nhấn mạnh: "Tôi tuyệt đối cam đoan với ngài rằng, nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp định này thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và ác liệt", và Thiệu đã coi những lời lẽ này như "lời hứa danh dự" và đó chính là một lý do để ông ta lên án Mỹ nặng nề trong diễn văn từ chức ngày 22-4-1975. Nhà báo, sử gia người Ðức - Tiến sĩ Winfried Scharlau (1934 - 2004), phóng viên chiến trường, một trong những nhà báo phương Tây cuối cùng rời Việt Nam trong tháng 4-1975 ghi lại: "Vào buổi tối, ông (Nguyễn Văn Thiệu) đã thổ lộ niềm cay đắng của mình về nước Mỹ trong một bài diễn văn trên truyền hình. Thiệu lên án Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ H. Kissinger đã không nhận ra, rằng Hiệp định do ông ta thương lượng trong tháng giêng 1973 đã dẫn miền nam đi tới chỗ chết, "Ai cũng nhận ra điều đó, nhưng Kissinger thì không. Các cường quốc có lợi ích chung. Chúng tôi không có gì để hy sinh ngoài đất nước nhỏ bé này"!
Trong tình thế phải "xuống thang" rút quân viễn chinh về nước, nhưng vẫn muốn gây sức ép để đạt được kết quả có lợi trên bàn hội nghị, Mỹ tiếp tục cố gắng kéo dài chiến tranh, thậm chí mở rộng chiến tranh ra ngoài biên giới miền nam Việt Nam. B.52 và cuộc tấn công tàn bạo trút bom xuống Thủ đô Hà Nội vào dịp Giáng sinh năm 1972 của R. Nixon đã không lật ngược được thế cờ. Mỹ phải chấp nhận Hiệp định Paris, và cũng gấp rút thực hiện các biện pháp đối phó. Ngay sau khi thống nhất khái niệm "ba vùng kiểm soát" trong dự thảo Hiệp định Paris, H. Kissinger lập tức điện cho E. Bunker - Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn, "yêu cầu Thiệu cố gắng hết sức để lấn chiếm được càng nhiều càng tốt vùng do Chính phủ cách mạng lâm thời kiểm soát". Và Thiệu đã gấp gáp xúc tiến kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm, bình định trong thời gian cố tình trì hoãn việc ký Hiệp định. Trước khi ký Hiệp định Paris, Mỹ gấp rút thực hiện hai kế hoạch Enhance (Tăng cường) và Enhance Plus (Tăng cường thêm nữa) để củng cố sức mạnh cho quân đội Sài Gòn với hy vọng đội quân này đủ sức đứng vững sau khi quân Mỹ rút đi. Trong thời gian từ cuối năm 1972 đến đầu năm 1973, qua cầu hàng không, Mỹ đã cung cấp cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu 700 máy bay, 500 pháo các loại, 400 xe tăng và xe bọc thép, bổ sung hai triệu tấn dự trữ vật tư chiến tranh...
Vượt qua mọi toan tính của Mỹ, sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của quân và dân Việt Nam đã liên tục giành những thắng lợi to lớn, đi đến thắng lợi cuối cùng. Về mặt quân sự, sau khi lính Mỹ đã rút đi, nguồn viện trợ quân sự từ Mỹ bị sụt giảm đáng kể, quân đội Sài Gòn không thể làm nổi những gì mà hơn hai triệu lượt quân viễn chinh Mỹ và gần 10 triệu tấn bom đạn không làm được trong những năm trước đó. Về mặt chính trị, Mỹ chọn giữ lại Nguyễn Văn Thiệu như một bảo đảm về cơ hội để có thể tiếp tục can thiệp, bảo đảm vai trò của Mỹ ở khu vực,... Nhưng họ đã "đặt cược" sai. Vì cũng như các chính quyền trước đó ở Sài Gòn, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là do Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng. Chính quyền đó chỉ có thể tồn tại nhờ chiến tranh, nguồn sống của nó chỉ là viện trợ Mỹ, cho nên nó không thể giải quyết hàng loạt vấn đề chính trị - kinh tế - xã hội phức tạp nảy sinh sau khi quân Mỹ rút, viện trợ Mỹ chỉ còn nhỏ giọt. Vì là chính quyền bù nhìn, cho nên khi Nguyễn Văn Thiệu cố dây dưa không ký Hiệp định Paris, trong thư gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 16-1-1973 R. Nixon mới có thể viết: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23-1-1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi, lập tức viện trợ kinh tế, quân sự của Hoa Kỳ và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước". Cách đây dăm năm, sau khi nội dung các cuốn băng ghi âm R. Nixon cho ghi tại Nhà trắng trong thời kỳ ông còn đương nhiệm được công bố, dư luận còn biết thêm nhiều điều. Trong những ngày bày mưu tính kế để rút quân Mỹ khỏi nam Việt Nam, ép chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải ký Hiệp định Paris, trao đổi với H. Kissinger, R. Nixon từng đưa ra ý kiến: "Nói một cách khác, tôi không biết sự đe dọa của chúng ta có đi quá xa hay không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì kể cả những điều không hay ho gì như cắt cái đầu Thiệu" (!). R. Nixon còn nói thẳng với cố vấn đặc biệt của Nguyễn Văn Thiệu: "Các ông hãy nhớ thật kỹ rằng: nếu không có viện trợ Mỹ thì Sài Gòn không thể tồn tại... không có ngân quỹ Mỹ thì Sài Gòn coi như chấm dứt". Ðó là ngôn ngữ của người biết mình có tư thế "ông chủ", ngôn ngữ của người chi tiền. Chính vì nhận ra số phận bù nhìn của mình, Nguyễn Văn Thiệu mới phải công khai thú nhận: "Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống cộng", "Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Ðộc Lập"!
Ý chí độc lập tự do, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam được hun đúc từ lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Cho nên dù thế lực ngoại xâm có sức mạnh vật chất to lớn đến đâu, dù thế lực ngoại xâm tàn bạo đến như thế nào cũng không thể làm suy giảm niềm tin, ý chí đấu tranh vì độc lập dân tộc. Vì thế, âm mưu và cố gắng tuyệt vọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ khi Hiệp định Paris được ký kết đến ngày 30-4-1975 càng làm cháy bỏng thêm ngọn lửa của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu đi đến đích cuối cùng. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trước hết bắt nguồn từ cuộc đấu tranh chính nghĩa và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam, sự chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình của quân đội và nhân dân Việt Nam sau mấy chục năm đấu tranh gian khổ. Còn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tháng 4-1975, trước hết do tính chất bù nhìn và mục đích phản dân tộc của nó. Ðó là một trong các nguyên nhân đưa tới quyết định sai lầm về sách lược chính trị, chiến thuật quân sự của Nguyễn Văn Thiệu. Thất bại ở Buôn Ma Thuột vào tháng 3-1975 nhanh chóng làm đảo lộn thế trận của chính quyền bù nhìn này trên toàn miền nam. Một đội quân có hơn một triệu người, ở thời điểm năm 1975 được đánh giá đứng thứ tư trên thế giới về lục quân, không quân, đứng thứ chín về hải quân,... gấp đối phương hai lần về quân số, bốn lần về xe tăng, hơn tuyệt đối về không quân và hải quân, đã nhanh chóng tan rã và thất bại trong chưa đầy hai tháng. Vì tính chất phi nghĩa của sự tồn tại mà đội quân ấy đã thất bại. Nói như GS N. Chomsky thì đó là "đội quân thiếu sự ủng hộ của nhân dân (nhất là ở nông thôn)", hay theo cách nói của W. Colby - người từng đứng đầu phái bộ CIA tại miền nam Việt Nam - đó là đội quân được Mỹ cho mọi thứ cần thiết, "trừ sự dũng cảm"!


                                                                                                                         THIÊN PHƯƠNG

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Về Hành Vi phản bội Tổ Quốc của nhóm Bauxite Việt Nam



Đây là một bức thư được gửi từ bà Lê Thị Bạch Tuyết , một Nhà báo đang định cư tại Mỹ. Cho dù bức thư đã cũ  nhưng tính thời sự vẫn còn, xin trân trọng giới thiệu:


Alexandria,  ngày 17 tháng 04 năm 2011.

                                               

                                            THƯ NGỎ

Gửi các ông: Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn và Nguyễn Thế Hùng
                     Chủ biên mạng Bauxite VN.

                  “Về hành động phản bội Tổ Quốc của các ông”.
  
Tôi Lê Thị Bạch Tuyết, một nhà báo tự do trên đất Mỹ đồng thời là một người Việt Nam sống xa Đất Nước nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Quê Hương Việt Nam thân yêu.

Lý do tôi viết lá Thư Ngỏ này vì một người bạn giới thiệu với tôi về trang nhà Bauxite VN. Kèm theo lời bình Trò muá rối của phường phản động bát nháo”.

Theo chúng tôi được biết, thời gian ông Nguyễn Huệ Chi được thuê làm bản nhận xét về cộng đồng Việt Nam ở Mỹ do một cơ quan ở bang Massasuchette làm chủ. Sẵn nuôi sự bất mãn ở trong lòng nên ông Nguyễn Huệ  Chi đã tìm đến để được gặp các bộ mặt phản động chống Nhà Nước Việt Nam tại Mỹ. Nhân cơ hội này, bọn phản động đã tâng bốc ông lên tận mây xanh: “Các ông mới quả xứng đáng đứng vào hàng lãnh đạo Nhà Nước Việt Nam”. Trên cương vị của hàng trí thức ở trong nước, các ông nên đứng lên lãnh đạo phong trào tranh đấu đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho đồng  bào trong nước. “Chúng tôi hứa sẽ ủng hộ hết mình về  tài chánh và phương tiện để các ông hoạt động”.

Tại Washington D.C các ông đã được Phạm Trần, một tên công giáo di cư Bùi Chu chống Cộng điên cuồng tiếp đón các ông, hắn hứa hẹn nhiều điều để nâng cao vị thế chống Nhà Nước của các ông. Qua California,  các ông lại được bọn phản động như : Nguyễn Gia Kiểng, Trần Văn Chi, Nguyễn Xuân Quang, Đỗ Tiến Đức …. Chào mừng và hứa hẹn đủ điều ….

Cho nên sau khi trở về Việt Nam ông Nguyễn Huệ Chi đã tích cực vận động  thành lập cơ sở công khai cũng như bí mật. Lợi dụng việc khai thác Bauxite của Trung quốc ở Tây-Nguyên nên ông Nguyễn Huệ Chi cùng hai ông  Phạm Toàn và Nguyễn Thế Hùng thành lập: “Trang nhà Bauxite VN” (website) để rồi từ đó ra mặt chống chính phủ một cách điên cuồng vì từ nay các ông đã có nguồn “tài chánh” thường trực và dồi dào mà các ông vin cớ để làm việc từ thiện”.

Không biết mai hậu sẽ ra sao ? Ông Nguyễn Huệ Chi sẽ trở thành Thủ tướng
chính phủ đích thực hay không ? Ông Chi không cần biết. Nhưng có điều hiện tại ông không cần lo gì về  tiền bạc và sẵn sàng đáp trả lại “mối hờn  căm của ông từ bấy lâu nay nhắm vào bọn chúp bu Đảng CSVN”.

Ở đời, ai ai cũng có sai lầm. Nhưng nếu ông Nguyễn Huệ Chi và đồng bọn có tinh thần phê bình xây dựng; muốn cho Đất Nước tốt đẹp. Chúng ta cần phải có lòng thành, nghĩa là phê bình thẳng thắn, không có ý đồ đạp đổ và lợi dụng sự tự do báo chí để cố ý mạt sát chế độ như hiện nay các ông đã làm.

Nếu tôi là người có quyền thế, tôi đã bắt nhốt các ông và sẽ truy tố các ông về việc làm lợi cho bọn phản động trong việc tuyên truyền đánh phá Nhà Nước Việt Nam.

Nhân danh là một người cầm bút; nhân danh là một người Việt Nam yêu nước tôi cực lực phản đối vai trò “trí thức yêu nước” CUỘI của các ông. Nếu tất cả các trí thức Việt Nam đều làm như các ông thì chỉ dẫn Đất nước ta vào ngỏ cụt “nô lệ” một lần nữa. Xin các ông chấm dứt ngay những hành động chống phá Nhà Nước Việt Nam, làm lợi cho bọn phản động ở nước ngoài, Xin chấm dứt ngay, đừng lợi dụng hình ảnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp đăng trên trang nhà Bauxite VN hòng làm mộc che chắn việc làm phản bội Đất Nước của các ông.

Có vài lời cuối, xin các ông Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn và Nguyễn Thế Hùng xin đừng nằm mơ đợi “cách mạng hoa Lài” thổi đến Việt Nam ?

Nay bút,


Lê Thị Bạch Tuyết.
Noihaydung.com


Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Con gái nhà văn Ngô Tất Tố phản bác tin thất thiệt

Con gái nhà văn Ngô Tất Tố phản bác tin thất thiệt


   Ngô Thị Thanh Lịch (con gái nhà văn Ngô Tất Tố) -                            
         04-04-2014 10:29:35 AM

  Thời gian gần đây, trên mạng internet, một hai blogger, đúng ra là chỉ từ một blogger thôi, blogger thứ hai "đua" theo, đưa tin thất thiệt về việc Cha tôi, Nhà văn Ngô Tất Tố mất năm 1954.
 Năm nay tôi 77 tuổi, là người con của Nhà văn, hiện còn sống có tuổi cao nhất. Khi Cha tôi mất, tôi đã 17 tuổi.

Tôi chính thức, công khai lên tiếng, hoàn toàn bác bỏ tin thất thiệt, bịa đặt vô căn cứ này. Bởi lẽ, hơn một năm trời Cha tôi ốm nặng, hình ảnh các mẹ tôi cùng đông đủ anh chị em trong gia đình thường xuyên quây quần, gần gũi và chăm sóc Cha tôi liên tục cho tới ngày Cha tôi mất và nhất là hình ảnh đám tang của Cha tôi trên Ấp Cầu Đen luôn sâu đậm trong tâm khảm tôi, người con gái đã trưởng thành.

 Dàn dựng nội dung thất thiệt đưa lên mạng, blogger này đã liên tiếp tự lộ mặt thật, có ý định đen tối, với chân tướng bịa đặt và xuyên tạc rất thô thiển nhưng tỏ ra non kém và vụng về.
Sự thật là trong những ngày gần chiến thắng Điện Biên Phủ, các văn nghệ sĩ chân chính cũng như toàn dân ta đang toàn tâm, toàn lực phục vụ kháng chiến, làm gì có chuyện "văn nghệ sĩ" của Hội Văn nghệ Việt Nam họp trên "đồi Nhã Nam" để "đấu tố gay gắt căng thẳng" như blogger này đã bậy bạ, dựng đứng bịa ra. Bởi lẽ theo tài liệu của Hội Văn nghệ Việt Nam, trước chiến thắng Điện Biên Phủ, tuyệt nhiên không có "bất kỳ cuộc họp nào" của "văn nghệ sĩ" tại vùng Yên Thế Bắc Giang. Hơn nữa  không có địa danh gọi là "đồi Nhã Nam" mà chỉ có Ấp Cầu Đen gần thị trấn Nhã Nam, là nơi sinh sống của một số gia đình các nhà văn, còn Hội Văn nghệ Việt Nam thì làm việc tận trên Tuyên Quang.

 Điều đặc biệt chú ý là ý nghĩa và giá trị các tác phẩm "Lều chõng, Việc làng" của Ngô Tất Tố không xa lạ gì với giới văn nghệ sĩ cùng thời, làm gì có chuyện "văn nghệ sĩ" nào đó lại nông cạn, đưa hai tác phẩm này ra để đấu tố, kết luận tác giả "phục cổ", giống  hệt như luận điệu xằng bậy của bọn người chuyên đi xuyên tạc sự thật. Không ai khác, đây là dụng ý đen tối, giọng lưỡi bịa đặt, bỉ ổi của chính blogger này. Với khí phách kiên định, quyết liệt bảo vệ lẽ phải đến cùng việc mình đã làm, không đời nào có chuyện ngây ngô như blogger này cho rằng tác giả bị "dồn vào tận chân tường".              

 Chưa hết, blogger này còn viết: "cái sự chết của nhà văn khắc nghiệt đến mức nghĩa trang liệt sĩ xã ở địa phương từ chối không cho chôn". Ô hay! Blogger này đã cố tình hoặc ngu xuẩn đến mức mù tịt không biết rằng hồi Nhà văn Ngô Tất Tố mất (năm 1954), ở các địa phương đâu đã có được nghĩa trang liệt sĩ xã!       Xin được giới thiệu những ý kiến của đồng nghiệp, bạn hữu, của Hội Văn nghệ Việt Nam, ghi nhận sự đau yếu và ngày mất của Nhà văn Ngô Tất Tố.

Nhân 100 ngày mất của Ngô Tất Tố, người láng giềng gần gũi sống ngay tại Ấp Cầu Đen, Nhà văn Nguyên Hồng viết: "Tháng 4 năm 1954, giữa một vùng quê hương thôn dã thứ hai của mình đang tưng bừng, quyết liệt đấu tranh ấy, Ngô Tất Tố đã từ biệt chúng ta mãi mãi... Trong Lều chõng, cuốn tiểu thuyết dày đặc của Ngô Tất Tố, sự ngay thẳng của một ngòi bút đã dõng dạc cất tiếng chửi vào mặt những cái "hay" cái "đẹp" của bọn thống trị đã đưa ra và cổ võ nó" (Tạp chí Văn nghệ, số 54, 8 - 1954).

Nhà văn Nguyễn Tuân, nguyên là Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam (1948 - 1957), đã viết: "Ngô Tất Tố buông hẳn tay bút vào mùa hè năm 1954. Có lẽ cái buồn nhất, tiếc nhất là nhà văn rũ áo ra đi hơi vội vàng. Cố nán lại được vài tuần nữa để kịp nghe cái tin Tây đế quốc hoàn toàn đại bại ở Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 thì cũng mát vậy thay cho vong linh của một nhà nho yêu nước không lúc nào nguôi về tiền đồ nghề văn nước mình, về triển vọng Tổ quốc mình" (Lời giới thiệu truyện Tắt đèn, Nxb Văn hóa, 1962).  

Trên báo Văn nghệ, số giữa năm năm 1954, đăng tin của Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, xin sao chụp toàn văn bản tin:




Sau khi tạm yên nghỉ tại Ấp Cầu Đen gần 10 năm từ 1954 đến 1963, (năm 1954 tại địa phương chưa lập nghĩa trang liệt sĩ), suốt 33 năm sau đó, từ 1963 đến 1996, hài cốt Ngô Tất Tố được di chuyển về yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ của quê hương ở xã Mai Lâm Đông Anh Hà Nội, đến năm 1996, Nhà nước cấp đất, đã chính thức xây phần mộ Ngô Tất Tố tại khu đất gần ngay nơi tác giả viết tiểu thuyết Tắt đèn, địa danh này cũng đã được tri ân gắn biển Di tích lịch sử. Ghi nhận công lao của Nhà văn Ngô Tất Tố, từ hơn 15 năm nay, Hà Nội liên tục, thường xuyên hàng năm tổ chức Giải thưởng báo chí Ngô Tất Tố. Hà Nội có trường Ngô Tất Tố. Thành phố Hồ Chí Minh có trường và chung cư lớn Ngô Tất Tố. Cho tới nay, trên 8 tỉnh và thành phố lớn của cả nước có phố, đường phố mang tên Ngô Tất Tố. Tiểu thuyết Tắt đèn được dựng thành phim Chị Dậu, tiểu thuyết Lều chõng được chuyển thể thành phim truyền hình 23 tập...   
  

Một lần nữa tôi công khai, chính thức hoàn toàn bác bỏ nội dung đăng trên mạng internet hoặc trên các phương tiện thông tin khác, của bất kể ai, với bất cứ tư cách gì, đưa tin thất thiệt về sự việc từ trần của Cha tôi là Nhà văn Ngô Tất Tố hồi năm 1954.

                                                                 Ngô Thị Thanh Lịch
                                                                     (Tháng 4 - 2014)

Theo http://vanvn.net

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

NGUYỄN QUANG A ĐÒI CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CHIA QUYỀN !



      Thưa các vị trong cái gọi là IDS !


Như chúng ta đã biết, trên thực tế chúng ta cần có các ý kiến phản biện xã hội, phản biện không tồn tại thì không chứng minh được đâu là đúng, đâu là sai, phản biện đúng chính là góp phần tăng cường sức mạnh cho chủ thể, khi chủ thể muốn đặt ra một mục tiêu hoạt động nào đó.


Tuy nhiên, người phản biện xã hội trước hết phải có cái tâm, cái lương thiện và có cái tầm (tầm là trình độ và kinh nghiệm hoạt động xã hội, có thử thách trong gian khó, có uý tín, có hy sinh đóng góp cho Dân tộc này, còn những kẻ tự cao, tự đại khoe có túi tiền to (Do kiếm được bằng cách ăn cắp, buôn lậu máy vi tính  trong lúc cả Dân tộc dằn mình hy sinh chiến đấu và xây dựng – Những kẻ ấy cần vứt bỏ và ném vào sọt rác của xã hội, bởi gì chúng biết gì mà phản biện)

Tôi muốn nói đến ông Nguyễn Quang A, Viện trưởng của cái gọi là Viện Nghiên Cứu Phát triển (Tến Tiếng Anh là IDS) – Viện phản biện các Chính sách Xã hội ở Việt Nam.



Dù có mưu mô xảo quyệt đến đâu thì Nguyễn Quang A đã thua một nước cờ của Nhà nước Việt Nam : Ông nói với tờ báo Chân Trời Mới rằng:”Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi không tuyên bố giải tán (IDS) trước ngày 15 thì ngay bản tuyên bố của chúng tôi ra chậm 5 giờ đồng hồ cũng có thể bị người ta (Nhà nước Việt Nam) quy cho là một việc phản biện vô luật pháp”…

Người Việt Nam chúng ta có câu “Cây ngay không schết đứng” có nghĩa là vì công lý, vì sự thật, vì nhân dân một người có thể “chết đứng” mà không thấy xấu hổ !
Còn ông ? Rõ ràng là do ông đã “playing ugly game
- Chơi một trò bẩn” nên ông lo sợ sự trừng phạt của Chính phủ vì hành vi không ngay thẳng của mình. Nếu ông và những người tài năng trong Viện của ông có thiện chí, có tấm lòng, có hành vi lương thiện thì cho dù ông tuyên bố giải th Viện IDS của ông thì Chính phủ, Nhân dân, Sinh viên, Quân đội …họ phải chạy đến van xin ông ở lại để cống hiến trí tuệ tót vời của các ông cho xã hội này, cớ sao phải lo sợ chậm 5 giờ sẽ bị quy là tội chống lại luật pháp !” (1)  Ông có học cao, hiểu rộng chắc ông đã biết Nhà Thiên văn học Galileo đã dũng cảm như thế nào trước Giáo hội La Mã chứ, sao ông không học một chút nhuệ khí của ông ta mà hoảng hốt hạ màn nhanh quá vậy, hay ông đã có sự chỉ đạo từ xa nhầm lẫn nào ! ?



Thật tệ và lố cho ông khi trả lời của cái gọi là báo Chân trời mới ông lại nói xằng rằng: ” Ở Việt Nam luật pháp được ban ra như là do  Vua là một người duy nhất làm ra luật, tiếng nói của Vua, đấy là luật. Tâm lý đó còn hằn sâu trong mỗi người quan chức Việt Nam, nó ảnh hưởng rất lớn lên cách hành xử của những người cầm quyền. Người ta muốn rằng khi người ta nói thì mọi người phải răm rắp nghe để lấy được một sự đồng thuận mà không muốn có ý kiến khác”.(2)



Đúng là giọng điệu bực bội thành ra ngớ ngẩn, giống giọng điệu của kẻ thù của Nhân dân Việt Nam, Ông lú lẫn đến nối không hiểu rằng ở Việt Nam có một Quốc Hội làm ra luật, đó là Quốc Hội nước CHXHCNVN, mà chính nó đã được các Quốc Hội tiến bộ trên thế giới công nhận ngang tầm với họ qua các hiệp định, qua các cuộc trao đổi và thăm viếng với hàng trăm các quốc gia khác trong đó có Quốc hội Hoa Kỳ, vì lẽ gì mà ông lại xuyên tạc sự thật. Quốc Hội đó đã không dưới hai lần đánh tan ý chí của quân xâm lược và tống cổ chúng ra khỏi đất nước này để cho ông không trở thành tên nô lệ mà đã giải phóng cho ông đưa ông đi học thành tài ở nước ngoài và chính cái Quốc Hội này người cha của ông đã không ngần ngại hy sinh đổ máu bảo vệ nó, trong những năm đất nước đau thương vì bị chiến tranh tàn phá, hàng triệu người phải ra mặt trận để chống kẻ thù bảo vệ và giải phóng Tổ Quốc thì ông được đi học ở nước ngoài, chính ông đã được hưởng lợi từ những giọt máu đã đổ xuống của người cha của ông và của cả dân tộc này, tại sao ông lại trắng trợn và vô liêm sĩ đến mức nói rằng ở Việt Nam, luật là do Vua làm ra ??? (Chỗ này chắc ông Nguyễn Quang A lại nói rằng Cha ông đi trận đánh Thực dân Pháp và bị chết là do bị CS lừa dối, giống như ông BauxiteVietnam Nguyễn Huệ Chi đã chửi bố mình là ông Nguyễn Đổng Chi đã hèn hạ tuân lệnh của Trần Huy Liệu viết bài chống Phan Khôi trong vụ Nhân Văn Giai phẩm, thay vì phải ca ngợi Phan Khôi và ngày nay Nguyễn Huệ Chi cảm thấy nhục nhã vì đã có người cha chả ra gì xem (http://nguyenhuechi.free.fr/noichuyen/2005-07-16-NHChi.MP3)



Vì không trung thực nên khi trả lời phóng vấn báo Chân Trời Mới ông lại nói tiền hậu bất nhất, ông đã thú nhận rằng Chính phủ CSVN không làm gì đến nhóm người của ông trong suốt hai năm trời, cho dù trong thời gian đó, mấy người trong nhóm của ông thao túng biết bao nhiêu điều, chỗ này thì ông lại nói thực:”Nói chung là những hoạt động của chúng tôi vẫn bình thường, nhiều cơ quan Nhà nước, hay viện nghiên cứu của Nhà nước cũng mời chúng tôi tham dự các hội thảo của họ, chúng tôi đóng góp ý kiến, trong không khí khá cởi mở, và trong hoạt động của mình trong vòng 2 năm thì không có gì cản trở lớn cả.”



Thực sự tôi và bạn bè của tôi không hiểu ông Nguyễn Quang A muốn làm gì nữa đây ? và đây rồi, chỗ này ông đã làm cho tôi đã hiểu ý chí của ông Tiến Sĩ, ông lại xơi xơi dạ vâng với cô Tuyết Đan nào đó rằng:”Đất nước này đã ở trong một thể chế, trong một chế độ mà người ta công khai từ rất lâu rồi, đó là một chế độ chuyên chính, đến nay thì có sự lãnh đạo cầm quyền là không chia sẻ, hay nói một cách nôm na là có một sự độc quyền, nhưng đối với nước Việt Nam thì chuyện độc quyền quyền lực thì nó là một sự… sự….”



Rõ ràng là Nguyễn Quang A và những người trong của cái gọi là IDS muốn được Chính phủ Cộng Sản chia sẻ quyền lực ! khi không được thoả mãn thì đâm ra cay cú , bất mãn và nói bậy, la lối om sòm theo kiểu anh Chí làng Vũ Đại ! Tuy nhiên chỗ này cái ý chí của Nguyễn Quang A đã lộ rõ hơn là ông muốn nắm một phần chính quyền ! Con Hồ Ly hôi hám đã không dấu được cái đuôi bẩn thỉu của mình cho dù nó đã cố dày công nguỵ trang !



Ông Nguyễn Quang A ạ, đến đây thì tôi thấy cái sự học vấn của ông quả là còn thấp kém, tại sao tôi nói vậy, bời vì có hai lý do sau đây:


1/ Ông đếm xem lại bình quân tuổi của tất cả 16 thành viên của cái gọi là Viện Nghiên Cứu Phát triển của ông năm nay là bao nhiêu rồi? tôi chưa cộng và chia, nhưng tất cả các cụ tài năng ấy đều ở tuổi Bát Thập Cổ Lai Hi cả rùi, không lẽ ông Phiêu, ông An, ông Lương đã về rồi theo quy định độ tuổi mà các ông "già khọm" ở IDS muốn nhảy ra thay thế ???


2/ Bây giờ ông mới biết Đảng Cộng Sản Việt Nam không chịu chia quyền lực cho các Đảng khác à, rõ ràng là chỗ này ông chưa “giác ngộ”
Ông định đòi nó chia quyền cho đảng nào bây giờ ? không bao giờ, bởi vì nó là một Đảng Cộng Sản, không phải là một Đàng Dân Chủ Tự do Thiên Chúa Giáo, hay Đảng Dân Chủ Xã hội,
hoặc đảng Cần lao Nhân vị, …Đảng CSVN đã được Hồ Chí Minh rèn luyện và xây dựng hàng triệu Đảng viên dũng cảm hy sinh xương máu của mình trước kẻ thù Dân tộc để giành lấy Độc Lập, Tự do cho đất nước mà chưa đảng nào trước nó làm được, nó độc quyền để đánh thắng nhiều quân Xâm lược, nó độc quyền để làm cho xã hội Việt Nam thành Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội Công bằng Dân chủ Văn minh, nó độc quyền nên ông mới được bao cấp sang Hungary để học rồi thành tài về xây dựng đất nước, nó độc quyền để canh giữ mảnh đất này, bầu trời này khỏi bị bọn xấu phá thối !



Lời cuối với sự chân tình tôi khuyên ông nên học câu thành ngữ Tây này ông Nguyễn Quang A ạ : ” Honesty Is The Best Policy” dịch sang tiếng Việt là “
Hãy biết cách sống lương thiện, nếu  dối trá sẽ bị dư luận vả vào mồm và sẽ bị lịch sử quẳng vào sọt rác”.

                                                                                                                          Chế Trung Hiếu
 --------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1)   Chi Chính phủ ra Quyết Định 97/2009/QĐ “Ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ”  thì Nguyễn Quang A lo sợ phạm pháp nên phải giải thể cái gọi là IDS của ông vì nó trái với QĐ này.

(2)   Nguyễn Quang A trả lời phỏng vấn của đài Chân trời mới rằng, “ở Việt Nam hiện nay giống như thời vua làm ra luật !”.

(3)   Danh sách thành viên IDS: Hoàng Tuy (90T), Nguyễn Quang A (70T),       Phạm Chi   Lan (70T), Lê Đăng Doanh (79T), Chu Hảo, Tương Lai (79T), Phan   Huy Lê (80T), Việt Phương (86T), Nguyễn Trung (80T), Nguyên Ngọc (86T), Phan Đình Diệu (80T), Phạm duy Hiển (80T), Huỳnh Sơn Phước (80T), Trần Đức Nguyên, Vũ Kim Hạnh,
  

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

LENIN GỌI KẺ NÀO LÀ "TRÍ THỨC CỨT"






Có một nhóm gồm 31 người  tự xưng là các Học giả trí thức từ Hải ngoại và Quốc nội viết thư ngỏ gửi: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam.


Trong thư ngỏ nhóm trí thức này viết:"
Cực lực phản đối việc thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của bà Đỗ Thị Thoan và ủng hộ các đồng nghiệp trong cộng đồng giáo dục và nghiên cứu Việt Nam trong việc đòi hỏi hủy bỏ quyết định này..."

Nếu ai đã từng quan tâm đến  luận văn thạc sĩ của tác giả  Đỗ Thị Thoan, mang tên: "Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" thì tất nhiên đã biết sấm sét của dư luận lương thiện Việt Nam giáng xuống đầu tác giả Đỗ Thị Thoan và người hướng dẫn làm luận văn này PGS TS Nguyễn Thị Bình vì những hành vi lợi dụng nghiên cứu văn học để "Giải thiêng lịch sử" và cố ý dùng văn bẩn của nhóm Mở Miệng  để đưa chuyện cứt đái ra nói công khai như những kẻ mua vui nhàn rỗi cho quần chúng bằng thơ tiếu lâm… Không chỉ nói chuyện “cứt đái”, thơ của nhóm Mở Miệng còn hào hứng miêu tả những bộ phận sinh dục của đàn ông và đàn bà, của loài vật cùng những hành vi làm tình, hành lạc… bằng những từ ngữ thô tục, trần trụi nhất mà một người có nếp giáo dục gia đình bình thường  cũng không thể nhắc lại được, họ âm mưu dùng  bản luận văn là một thứ nghiên cứu trá hình mang nội dung chính trị phản động. Nó trá hình ở chỗ mượn cụm từ “góc nhìn văn hóa” để khảo sát một hiện tượng văn học, nhưng thực chất để tung hô, cổ xúy cho một “thực hành thơ bên lề” có tư tưởng chống đối cái trung tâm, cái chính thống, chống lại định hướng, chống lại thiên chức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân của văn học và nhà văn; nhóm nghiên cứu đã lạm dụng cái gọi là "sự tự do trong học thuật" để bẻ cong mục đích chính của Văn học là vinh danh cái đẹp của cuộc sống và  sáng tạo các tác phẩm văn học để  ngợi ca  Tổ Quốc tươi đẹp của mình cùng với những  Con Người đang cống hiến hết sức mình trong công cuộc xây dựng Xã hội ngày càng tốt đẹp !



Nhóm tự cho là "trí thức" luôn luôn tham gia chống phá nhà nước, thậm chí
chúng bảo vệ, cổ súy cho bọn phá hoại pháp luật Việt Nam cho dù chúng bị kết án tù




Như thế là mọi chuyện đã rõ ràng và cái gọi là “luận văn khoa học” kia đã bị ném vào sọt rác cùng với tư tưởng phản loạn và uy tín của nhóm thầy trò rác rưởi nói trên.

Là người còn có chút liêm sỉ và lương thiện chúng ta càng thấy xấu hổ khi có một nhóm người mang danh 31 trí thức để viết bức thư ngỏ có tên ”Vi phạm tự do học thuật và thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan”  gửi trường Đại học Sư phạm  Hà Nội và Bộ Đại học và Đào tạo cao giọng đầy vẻ trịch thượng của bọn đạo đức giả sống xa rời thực tế phát triển của Đất Nước nhằm bênh vực cho “nhóm rác thối” đã bị những người lương thiện phê phán và khinh bỉ nói trên.


Chúng ta còn nhớ  năm 1919 khi phê phán nhóm phản loạn đội lốt trí thức có tên  là “trí thức Dân Hiến “ gồm toàn là những kẻ đã đứng về phía Sa Hoàng  phản lại Nhân dân Lao động Nga. Chúng hoặc lén lút, hoặc công khai luôn luôn giúp đỡ bọn " Bạch Vệ - Nga Gian"  những kẻ âm mưu lật đổ chính quyền Sô-Viết non trẻ, gây bạo loạn và giết người lương thiện ở Nga,  Lenin đã coi nhóm “trí thức Dân Hiến” đó giống kiểu nhóm 31 trí thức gửi Thư ngỏ trên kia là những đống cứt:

Và Người dõng dạc nói:” Các lực Lượng trí tuệ  chân chính của Công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản , bọn Sa Hoàng và bọn đồng lõa,  còn lũ mang danh trí thức Dân Hiến – là bọn đầy tớ của Tư bản, những kẻ luôn hợm mình là bộ não của Quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt….”(*)

Thiết tưởng sau vụ việc này, người lương thiện, người chân chính và 31 vị "trí thức mù lòa thực tiễn ở Việt Nam" kia hẳn tự biết xếp mình vào loại trí thức nào !


Chế Trung Hiếu
(*) Nguyên văn câu nói của Lenin:

Интеллектуальные силы рабочих и крестьян растут и крепнут в борьбе за свержение буржуазии и ее пособников, интеллигентиков, лакеев капитала, мнящих себя мозгом нации. На деле это не мозг, а говно_______



Toàn văn cái gọi là Thư ngỏ:



Kính gửi:
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chúng tôi, những người quan tâm về giáo dục Việt Nam ký tên dưới đây, cực lực phản đối việc thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của bà Đỗ Thị Thoan và ủng hộ các đồng nghiệp trong cộng đồng giáo dục và nghiên cứu Việt Nam trong việc đòi hỏi hủy bỏ quyết định này.
Luận văn của bà Đỗ Thị Thoan, “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”, đã được hội đồng chấm luận văn của Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội cho điểm 10/10 vào năm 2010, nhưng bốn năm sau bỗng bị thẩm định lại bởi một hội đồng khác một cách thiếu minh bạch. Bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan bị thu hồi theo Quyết định số 667/QĐ-ĐHSPHN ngày 11/03/2014 và Quyết định số 708/QĐ-ĐHSPHN ngày 14/03/2014. Tác giả luận văn và người hướng dẫn không được cho cơ hội để phản biện. Lý do dẫn đến các quyết định này không được công bố, và nhất là không có bằng cớ nào chứng tỏ luận văn đã có sai phạm đáng kể về học thuật. Có bằng chứng là đã có sự can thiệp với động cơ chính trị, phi học thuật, nhằm tạo áp lực để Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thu hồi văn bằng.
Những hành động trên đã
- trực tiếp vi phạm qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (điều 22, Quyết định 33/2007/QĐ-BGDĐT), theo đó thì văn bằng chỉ có thể thu hồi nếu phát hiện hành vi gian lận, cấp cho người không đủ điều kiện, do người không có thẩm quyền cấp, đã tẩy xóa sửa chữa, hoặc đã để người khác sử dụng.
- đi ngược lại những nguyên tắc công lý căn bản, không cho tác giả luận văn và người hướng dẫn có cơ hội để phản biện, không công bố rõ ràng các lý do, luận cứ, bằng chứng, hồ sơ liên hệ đến việc tái xét và thu hồi
- vi phạm nghiêm trọng quyền tự do học thuật.
Các đại học chỉ có thể đóng góp hữu hiệu cho sự phát triển của đất nước nếu các giảng viên và sinh viên có quyền nghiên cứu bất cứ đề tài nào. Công trình của họ phải được đánh giá trên các tiêu chuẩn học thuật, bởi những nhà chuyên môn có thẩm quyền. Bằng cấp chỉ có thể bị thu hồi trong trường hợp ứng viên đã phạm những lỗi nghiêm trọng về học thuật như đạo văn, ngụy tạo dữ liệu, nhờ người viết giùm.
Vì những lý do trên, chúng tôi yêu cầu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hủy bỏ quyết định thu hồi bằng Thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan và công bố các hồ sơ liên quan đến việc này. Ngoài ra, để tiến tới một nền giáo dục Việt Nam lành mạnh và tân tiến, chúng tôi yêu cầu nhà nước mở cuộc điều tra về những lý do đã dẫn đến vụ tái thẩm định, và thiết lập những biện pháp để ngăn ngừa sự tái diễn trong tương lai việc can thiệp một cách lén lút, bất hợp pháp vào các quy định có hiệu lực pháp lý.
Ký tên

Danh Sách Những Người Ký Tên
(Ngày cập nhật 13/4/2014, để ký tên vào lá thư, bạn vui lòng gửi thông tin tới academicfreedomvn@gmail.com)
1. Ngô Vĩnh Long, Tiến sĩ Sử học và Ngôn ngữ phương Đông, Giáo sư Đại học Maine, Maine, Hoa Kỳ.
2. Vũ Quang Việt, Tiến sĩ Kinh tế, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia Liên Hiệp Quốc, New York, Hoa Kỳ.
3. Trần Hữu Dũng, Tiến sĩ Kinh tế, nguyên Giáo sư Đại học Wright State, Dayton, Ohio, Hoa Kỳ.
4. Lê Xuân Khoa, nguyên Phó Viện trưởng Viện Đại học Sài gòn, nguyên Giáo sư thỉnh giảng trường SAIS, Đại học Johns Hopkins, Washington DC., Hoa Kỳ.
5. Trần Văn Thọ, Tiến sĩ Kinh tế, Giáo sư Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản.
6. Phạm Quang Tuấn, Tiến sĩ Hóa học, Phó Giáo sư Đại học New South Wales, Sydney, Úc.
7. Đỗ Đăng Giu, Tiến sĩ Vật lý, nguyên Giám đốc Nghiên cứu của CNRS, Đại học Paris-Sud, Cộng hòa Pháp.
8. Phạm Duy Thoại, Tiến sĩ Y khoa, Giáo sư Đại học Humboldt, Berlin, Cộng hòa Liên bang Đức.
9. Nguyễn Đăng Hưng, Tiến sĩ Khoa học ngành Cơ học Tính toán, Giáo sư danh dự Đại học Liege, Vương quốc Bỉ.
10. Hà Dương Tường, Tiến sĩ Toán học, nguyên Giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Cộng hòa Pháp.
11. Nguyễn Ngọc Giao, nguyên Giảng viên toán, Đại học Denis Diderot (Paris VII).
12. Phạm Minh Châu, Tiến sĩ Hóa học, Giáo sư Đại học Denis Diderot, Paris, Cộng hòa Pháp và Đại học Khoa học và Công nghệ Pháp-Việt (USTH), Hà nội, Việt Nam.
13. Phạm Xuân Huyên, Tiến sĩ Toán học, Giáo sư Đại học Denis Diderot, Paris, Cộng hòa Pháp và Viện John von Neumann, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
14. Phạm Xuân Yêm, Tiến sĩ Vật lý, nguyên Giám đốc Nghiên cứu của CNRS, Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Cộng hòa Pháp.
15. Trần Nam Bình, Tiến sĩ Kinh tế, Phó Giáo sư Đại học New South Wales, Sydney, Úc.
16. Nguyễn Đức Hiệp, Tiến sĩ Công nghệ Y sinh, Chuyên gia nghiên cứu khoa học khí quyển, Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Úc.
17. Hoàng Kháng, Tiến sĩ Vật lý, Nhà nghiên cứu khoa học, Đại học North Dakota State, North Dakota, Hoa Kỳ.
18. Dương Văn Tú, Nghiên cứu sinh ngành Công nghệ Dược phẩm, Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ.
19. Ngô Đức Thế, Tiến sĩ Vật lý, Nghiên cứu viên, Đại học Kỹ thuật Đan Mạch, Vương quốc Đan Mạch.
20. Hồ Tú Bảo, Tiến sĩ Công nghệ Thông tin, Giáo sư Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản, Ishikawa, Nhật Bản và Viện John von Neumann, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
21. Nguyễn Đức Tường , Tiến sĩ Vật lý, nguyên Giáo sư Đại học Ottawa, Canada.
22. Nguyễn Văn Tuấn, Giáo sư Y khoa, Đại học New South Wales, Sydney, Úc.
23. Ngô Bảo Châu, Giáo sư Đại học Chicago, Illinois, Hoa Kỳ; Giám đốc khoa học Viện nghiên cứu cao cấp về toán, Hà Nội, Việt Nam.
24. Cao Huy Thuần, nguyên Giáo sư Đại học Picardie, Cộng hòa Pháp.
25. Đặng Xuân Thảo, Tiến sĩ Điều khiển học, Laboratoire VERIMAG (CNRS), Grenoble, Cộng hòa Pháp.
26. Trần Hải Hạc, Tiến sĩ Kinh tế, nguyên Phó Giáo sư Đại học Paris 13, Cộng hòa Pháp.
27. Nguyễn Mạnh Hùng, Tiến sĩ Kinh tế, nguyên Giáo sư Đại học Laval, Quebec, Canada.
28. Phạm Đỗ Chí, Tiến sĩ Kinh tế, nguyên Phó Giáo sư thỉnh giảng chương trình MBA, American University, Washington, DC., Hoa Kỳ.
29. Giáp Văn Dương, Tiến sĩ Vật lý, Hà Nội, Việt Nam.
30. Nguyễn Trọng Hiền, Phòng Thí nghiệm Phản lực, Viện Công nghệ California, Pasadena, CA 91109, Hoa kỳ.
31. Nguyễn Thùy Phương, Tiến sĩ Giáo dục học, Đại học Paris Descartes, Paris, Pháp.