Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

MINH TRIẾT DU CÔN

ĐÔNG LA



Tôi không biết Nguyễn Khắc Mai là ai, chỉ loáng thoáng thấy cái tên này gắn với cái trung tâm “minh triết” gì đó. Tôi vốn dị ứng với những từ ngữ quá kêu, bởi nếu VN ta có những nhà minh triết, những “người hiền”, những bậc cao minh thì chúng ta đâu còn là một nước kém phát triển. Đến cụ Cao Xuân Huy, thầy của các GS ngành KHXH đầu tiên, từng được Nguyễn Huệ Chi ca ngợi là “người hiền”; Lê Đạt, nhà thơ lừng danh, cũng được Nguyên Ngọc ca ngợi là “người hiền”; nhưng tôi đọc còn thấy họ viết sai tùm lum thì Nguyễn Khắc Mai, so với hai tên tuổi kia thì đúng là “vô danh”, liệu có thể là một nhà minh triết được chăng? Nên tôi không tìm hiểu bởi nếu đã đọc Nguyễn Khắc Mai viết là chắc chắn “có chuyện”. Thôi cứ để cho những người thích làm dáng tri thức, khoe chữ, họ huyên thuyên cũng chả chết ai.

Nhưng thời gian qua tôi có viết hai bài về chuyến đi lịch sử của TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ theo lời mời của Chính phủ Mỹ. Khi viết thì phải tìm hiểu những bài liên quan nên thấy “chình ình” cái bài “Lại có điều hầu chuyện với anh Trọng” của tác giả NGUYỄN KHẮC MAI, xưng là Nhà nghiên cứu Minh triết Việt, đang lan trên các trang có khuynh hướng chống phá nhà nước VN. Tìm hiểu chút nữa thì thấy Nguyễn Khắc Mai không chỉ có một bài đó mà còn có nhiều bài về minh triết khác nữa, không chỉ bàn về minh triết mà còn dùng minh triết bàn về chính trị. Bàn về chính trị đã khó, về minh triết chính trị nữa lại càng khó hơn, điều này đã khiến tôi tò mò tìm hiểu. Nhưng kết quả khiến tôi “ngã bổ chửng” bởi thấy minh triết của Nguyễn Khắc Mai là thứ minh triết du côn!

Vậy Nguyễn Khắc Mai là ai? Và minh triết là gì?
Lại Google thôi, thấy Nguyễn Khắc Mai là đương kim Giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt Nam, một trung tâm ra đời năm 2008, thuộc Liên hiệp các hội KHKT, y như cái Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh mà Nguyên Ngọc làm Chủ tịch HĐKH vậy, nhưng không biết có tréo ngoe là một quỹ trực thuộc TW nhưng lại được thành lập theo quyết định của UBND TP Hà Nội hay không? Còn hai chữ minh triết tưởng dễ hiểu nhưng không ngờ giới “tinh hoa” nước mình cũng lại hiểu lung tung đến vậy.
Theo một bài của TRẦN NGHĨA, PGS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
 - “Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi” (Hoàng Ngọc Hiến).
- “Minh triết là một trạng thái hợp lý của đời sống, diễn tả theo một cách khác thì nó nằm ở giữa chân lý và phi lý” (Trần Sáng).
-Minh triết là tính chất của tinh thần, tâm hồn và trí tuệ của dân tộc được trầm tích (Hà Văn Thùy).

Theo tôi các định nghĩa trên đều có vẻ đúng mà không đúng. Cũng như có nhiều người có vẻ tài mà không tài. Còn khái niệm minh triết thực ra là chỉ cấp độ cao nhất của nhận thức, của hiểu biết của chính con người. Theo nghĩa chung nhất của từ thì chữ “minh” ở đây là sáng suốt, chữ “triết” là hiểu biết, vậy “minh triết” là hiểu biết một cách sáng suốt. “Sáng suốt” ở đây có nghĩa cao hơn, toàn diện hơn cả tính “đúng đắn”, nghĩa là sự hiểu biết phải toàn diện, thấu suốt và tương hợp; nói theo ngôn ngữ triết học là hiểu một cách biện chứng. Vì vậy minh triết không phải là thái độ “biết sống” của Hoàng Ngọc Hiến, không phải là “trạng thái của đời sống”  theo Trần Sáng; còn với Hà Văn Thùy, minh triết đúng là “tính chất của tinh thần, tâm hồn và trí tuệ của dân tộc được trầm tích”, nhưng “tinh thần, tâm hồn và trí tuệ của dân tộc” còn “trầm tích” nhiều cái khác nữa.

Còn theo Nguyễn Khắc Mai, nhân vật của bài viết này: Minh triết chính là năng lực để sống”. Năng lực để sống là trí tuệ, tay nghề, là cần cù chịu khó, là có chí để vượt khó, để thích nghi hoàn cảnh chứ “năng lực” không phải là minh triết. Một người hiểu biết mà lười, mà không có chí thì cũng đói ăn thôi! Chỗ khác ông Nguyễn Khắc Mai cho minh triết là "vượt lên bản thân để mà hướng đến cái tốt đẹp". Câu này có thể là một lời khuyên có tính minh triết chứ không phải là minh triết.
Như vậy, Nguyễn Khắc Mai, một người chưa hiểu chính xác chữ minh triết, lại làm giám đốc một trung tâm minh triết, rồi bàn về minh triết e rằng sẽ có nhiều huyên thuyên!

***
Quả đúng vậy. Trên BBC, 9 tháng 2 2015,  Nguyễn Khắc Mai đã trả lời phỏng vấn BBC về vấn đề tối quan trọng “Đảng nên chọn Tổng bí thư kế tiếp thế nào?” Có vài độc giả từng góp ý với tôi không nên bàn về những ý kiến về các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tôi bảo thời đại internet, thông tin lan truyền trên trời, các ông không che chắn được đâu, nhất là những trang như BBC. Tốt nhất là phải biết chúng có tồn tại, phải đối diện và tranh biện, phản bác. Biết có những dư luận xấu mà làm ngơ chẳng khác gì người ta bị trọng bệnh mà làm ngơ vậy, mà làm ngơ thì bệnh đâu có khỏi! Bài trả lời BBC của Nguyễn Khắc Mai nói trên chính là như vậy. Ông ta nói:
“"Đấy là cái hy vọng của chúng tôi và chúng tôi cũng đang mong muốn là xu hướng ấy nó sẽ xảy ra là làm sao chọn được một Tổng Bí thư mà có thể nói là không lú lẫn như anh Trọng (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) hiện nay”.
Tôi thật ngạc nhiên một ông già U90, từng là Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, một ban của Đảng, lại nói về TBT Đảng của mình một cách “du côn” như vậy. Giờ còn làm giám đốc một trung tâm minh triết nữa, thì theo tôi, minh triết của Nguyễn Khắc Mai là một thứ “minh triết du côn”!

***
Với bọn vô văn hóa, chống đối, quấy rối thì không chỉ TBT, các vị lãnh đạo, mà cả các bậc thánh nhân, các lãnh tụ cũng đều bị chúng bêu xấu diễu cợt. Tôi cũng bị bọn “sâu bọ rắn rết” chửi bậy rất nhiều, lúc đầu cũng cay lắm, nhưng nghĩ đời tất phải có kẻ xấu người tốt, nếu mình tự tin là tốt thì bọn chửi mình tất phải xấu. Còn muốn bọn xấu cũng khen mình thì buộc phải làm điều xấu thôi. Cuối cùng tôi không chấp, coi những lời chửi bậy chỉ như “muỗi đốt inox”! Nhưng chuyện ông Nguyễn Khắc Mai nói về ông Nguyễn Phú Trọng không phải là chuyện cá nhân mà là chuyện chính trị, mà với chuyện chính trị thì cái gì cũng “không chấp” đất nước sẽ loạn!
Còn ông Nguyễn Phú Trọng, với tôi, cảm giác chung nhất về ông thấy giống một ông giáo hiền lành, nên tôi đã ngạc nhiên khi biết, theo Tướng Nguyễn Thanh Tuấn, có chuyện đối đáp giữa ông Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào tuyệt hay. Khi ông Đào nói "Đường chữ U là sự nghiệp của Quốc dân đảng để lại, nếu xóa bỏ thì nhân dân TQ sẽ không chấp nhận sự lãnh đạo của ĐCSTQ". TBT Nguyễn Phú Trọng nói: "Các đồng chí nói vậy là chưa đúng, Quốc dân đảng để lại 11 khúc trong đường chữ U, thì các đồng chí đã xóa đi 2 khúc. Mặt khác, Quốc dân đảng để lại Đài Loan, nhưng các đồng chí đã không chấp nhận và muốn xóa bỏ sự độc lập của Đài Loan, nhưng nhân dân vẫn ủng hộ, như vậy, không phải vì lý do này mà nhân dân không ủng hộ ĐCSTQ". Khi ông Đào đề nghị VN ngưng hoạt động khảo sát tiềm năng kinh tế trên Biển Đông thì TBT Nguyễn Phú Trọng nói thẳng: “Chúng tôi hoạt động trong phạm vi 200 hải lý, thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN, phù hợp với Công ước quốc tế về Luật biển của LHQ năm 1982 có chữ ký của các nước liên quan đến Biển Đông, trong đó có chữ ký của các đồng chí. Quan điểm của VN là như thế đấy! Nếu TQ có quan điểm không đồng ý, thì đem ra Tòa án Công lý Quốc tế phân xử, rồi Tòa án quốc tế phán quyết thế nào thì chúng tôi sẽ chấp nhận như thế đấy".

Còn chuyện đối đáp với Mỹ, chắc nhiều người cũng có cái cảm giác không hay như tôi khi thấy một vị thủ tướng của nước mình lúng túng trước ông TT Mỹ, khi trò truyện thân tình với nhau cũng phải dùng “phao”. Mỹ nó giầu mạnh thế “khớp” cũng phải thôi. Vì thế tôi đã tò mò canh tivi xem ông Nguyễn Phú Trọng sẽ đối đáp với ông Obama như thế nào? Giờ thời sự là giờ ăn tối của nhà tôi nên bà xã tôi cũng coi. Đàn bà vốn ít quan tâm chuyện chính trị nhưng vì thấy ông Nguyễn Phú Trọng “hay quá” nên vợ tôi đã phải buột miệng khen. Còn tôi thì bị bất ngờ, vị TBT của ta không chỉ bình tĩnh tự tin, làm tròn sứ mệnh, mà ở con người ông còn toát ra một phong thái có một tầm văn hóa. Tôi đã viết bài CHUYẾN THĂM MỸ CỦA TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG THẬT THÚ VỊ! là vì thế.
Còn Nguyễn Khắc Mai trình độ ra sao mà dám chê một vị TBT như ông NPT? Cần phải biết không phải cứ mạnh miệng chê bôi cán bộ cao cấp thì trí tuệ mình cao cấp, phủ nhận những con người vĩ đại mình sẽ vĩ đại, mà thực chất chỉ là những thằng hoang tưởng mà thôi! Cái cần của sự phản bác là chứng cớ, lý lẽ, có lý người ta mới tin.
Tìm hiểu tí trên mạng thì biết Nguyễn Khắc Mai này “Tốt nghiệp khoa Văn – Sử, Đại học Sư phạm Hà Nội”. Không phải với tất cả nhưng tôi thường rất “hãi” trí óc của mấy “bố văn sử” vì nhận thức của họ thường là cảm tính, ai có cái tôi to tướng nữa thì thường là nói bừa! Nguyễn Khắc Mai là một người như vậy.
Một người có bút danh mạng là Hoa đất trên danoanlentiengviết về vụ ông Nguyễn Khắc Mai bênh vực cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên:

“… cách tiếp cận thông tin của GIÁO SƯ còn mang tính một chiều, nên đã cổ súy cho những hành vi vi phạm pháp luật, đang được các phần tử xấu tung hô như những anh hùng… Trong bản nhận tội viết tại cơ quan an ninh điều tra, Nguyễn Phương Uyên đã thừa nhận: “Bản thân tôi nhận thấy việc làm của mình đã vi phạm pháp luật nhà nước Việt Nam, chống lại Ðảng cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, giúp cho tổ chức phản động chống Ðảng, Nhà nước... Những việc làm này nhằm để được cung cấp máy laptop, điện thoại và hỗ trợ tiền...” … Trong thư ngỏ, Giáo sư trích dẫn: “Tôi vừa được tin sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã bị đuổi học, lý do đích thực là vì Uyên đã công khai lên án hành động làm hại đến chủ quyền và đời sống của ngư dân Việt Nam ta của phía Trung Quốc”. Vậy là đã có câu trả lời cho cho những bức xúc của Giáo Sư rồi”.
Lần đầu tiên tôi được biết đến ông Nguyễn Khắc Mai là qua một bài viết có tên là "Minh Triết Các Mác hay những nghịch lý cộng sản". Than ôi, đó là một bài viết đầy những dối trá, bịa đặt và xuyên tạc tư tưởng của Marx”; “Khái niệm minh triết của ông Nguyễn Khắc Mai là một thứ chủ nghĩa duy linh đội lốt khoa học, thế nên nó được học bằng thần hứng (trực cảm, tâm linh). Nói nôm na là người ta có thể sẽ gọi hồn ông Marx lên để học tư tưởng Marx cho nhanh”; “ông Nguyễn Khắc Mai bịa đặt hoàn toàn về từ "Kommunismus" [một từ tiếng Đức], nếu tra từ đó bằng tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp hay bất cứ thứ tiếng nào, với bất cứ từ điển nào thì kết quả đều là khái niệm về "chủ nghĩa cộng sản", nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế. Khái niệm "chủ nghĩa cộng đồng" mà ông Nguyễn Khắc Mai cho là đúng thì trong tiếng Đức người ta dùng một từ khác để diễn đạt, đó là từ "Kommunalismus". Các ngôn ngữ khác cũng có từ tương tự, "chủ nghĩa cộng đồng" là một khái niệm đề cập đến văn hóa và chủng tộc. Chả biết minh triết rồi sẽ đi đến đâu, nhưng "ngu" triết thì đã rất rõ ràng”.

Lữ Phương trên vietstudies có bài MinhTrietTheNaySao? Khi thấy Nguyễn Khắc Mai viết: “Cái gọi là giá trị minh triết đầu tiên của C. Mác là sự thừa nhận không có chủ nghĩa cộng sản. Hai ông nhiều lần khẳng định điều này (xem Ăng ghen trả lời phỏng vấn của K. Heinzen, cũng như bài tựa tác phẩm Cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp)”, đã: “nhận ra những sai lầm không thể nào tưởng tượng nổi của một nhân vật “hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết”. Bởi theo Lữ Phương: “điều ông Mai gọi là “Ăng ghen trả lời phỏng vấn của K. Heinzen” thực sự là những lời luận chiến phê phán những nhận xét sai lầm của K. Heinzen về chủ nghĩa cộng sản của Marx: “Heinzen hình dung … Chủ nghĩa cộng sản không phải là một học thuyết mà là một phong trào đem vào thực hiện không phải từ những nguyên lý mà từ các sự kiện”; mà theo Ăng ghen: “Trong chừng mực là một lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản là biểu hiện lý luận vị trí của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và vô sản, là sự tổng kết những điều kiện cho sự giải phóng giai cấp vô sản”Lữ Phương kết luận: “Tôi hết sức ngạc nhiên về thái độ quá dễ dãi (hoàn toàn thiếu thận trọng) trong cách đọc văn bản của ông Nguyễn Khắc Mai cũng như cách ông viện ra khái niệm gọi là “giá trị minh triết” để giải thích xuyên tạc tư tưởng của Marx”.

Còn trong bài mới nhất mà tôi chú ý “Lại có điều hầu chuyện với anh Trọng”, (tôi đọc trên http://vietstudies.info/kinhte/NKhacMai_LaiHauChuyenVoiTrong.htm), đang lan truyền trên mạng, NGUYỄN KHẮC MAI viết:
“Nhiều lần, tôi đã thưa với các vị lãnh đạo rằng chớ nhục nhã đi xin xỏ các nước tiên tiến giàu có: “xin công nhận cho chúng tôi quy chế kinh tế thị trường”, mà hãy quay về xin với nhân dân “hãy làm kinh tế thị trường cho đúng nghĩa, thực chất, văn minh và lành mạnh”. “Các nước tiến bộ, giàu mạnh, họ không xin xỏ như vậy… Khi đất nước của họ có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa rồi thì không cần xin xỏ ai nữa. Cố nhiên, họ không cần cho mọc cáí đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm gì”.
Viết vậy thực chất Nguyễn Khắc Mai chưa hiểu về các vấn đề kinh tế. Trong Thương Mại Quốc tế người ta cần xem xét tính chất thị trường của một nền kinh tế vì liên quan đến chuyện bán phá giá và trợ cấp, ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của hàng hóa. Vì VN ta có ưu thế về nhân công rẻ và khí hậu, môi trường thuận lợi cho sản xuất nông sản, nên khi giao thương người ta vẫn cố cho nền kinh tế của ta còn có yếu tố phi thị trường để áp chế các điều khoản, giảm sức cạnh tranh hàng của ta. Cũng như những cái cớ về “nhân quyền”, “dân chủ” người ta muốn ta bị lệ thuộc hơn nên thường đưa ra, ta vẫn luôn đề nghị đối thoại, cởi mở, sòng phẳng cũng y như ta “xin xỏ” thế giới công nhận nền kinh tế thị trường của ta vậy. Còn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì nếu Nguyễn Khắc Mai có đọc Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 2/2001 định nghĩa về nền Kinh tế Mỹ thì sẽ thấy nền Kinh tế Hỗn hợp của Mỹ có nhiều nét tương đồng với nền kinh tế có cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” của ta!

Nguyễn Khắc Mai rất sai khi viết: “Riêng cái yếu tố, tôi cho là cơ bản, quan trọng nhất của kinh tế thị trường là quyền sở hữu, thì chúng ta đang rất lạc hậu, lúng túng” vì cái chính của kinh tế thị trường là tuân theo quy luật cung-cầu chứ không phải là chuyện sở hữu. Còn ông đòi sở hữu tư nhân mọi chuyện thì tôi cũng đã viết: “Nếu việc sở hữu tư nhân đất đai được hiến định thì người có tiền hoàn toàn có thể chiếm giữ được những vị trí chiến lược, những nơi hiểm yếu. Mà lực lượng chống phá đất nước nếu cần thì sẽ không thiếu tiền”; “Tương tự, dân ta cũng phải đổ bao mồ hôi và máu để giành lại tài nguyên, khoáng sản. Vì vậy như đất đai, tài nguyên và khoáng sản cũng phải thuộc sở hữu toàn dân, tức thuộc kinh tế nhà nước. Bên cạnh đó, những lĩnh vực, ngành nghề trọng yếu, xương sống của nền kinh tế cũng phải thuộc kinh tế nhà nước. Chỉ như vậy đất nước mới có sức mạnh và giữ được sự ổn định”. Còn riêng ý này của tôi phản biện nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển về việc xác định tính chủ đạo của nền kinh tế: “Nếu cho lĩnh vực nào làm nhiều tiền hơn là chủ đạo thì chỉ là tư duy của cái dạ dầy thôi. Còn với tư duy của đầu óc thì thấy ăn uống để sống quả quan trọng, nhưng khi đất nước mất ổn định thì người ta không thể ngồi yên mà ăn được đâu!” cũng có thể là một ý minh triết!

Nguyễn Khắc Mai “tâm sự” với TBT NPT: “Anh từ Mỹ về, hãy đem những “thực tế văn minh tiến bộ của một Dân tộc hiện đại” làm bài học cho Việt Nam. Hãy từ bỏ cách nghĩ thực chất là của Liên Xô và Trung Cộng, chúng mớm cho ta kèm theo với vũ khí và lương thực, rằng Mỹ là đế quốc sài lang, là kẻ thù nguy hiểm nhất”. Một người học Văn- sử mà viết vậy đúng là mù lịch sử. Chỉ những thằng ngu mới phải cần người khác chỉ cho biết những người xâm lược mình là ai. Nước ta nhược tiểu, hai bàn tay trắng, vậy muốn giành được độc lập buộc phải đi nhờ vả. Nhưng thực tế trong hai cuộc kháng chiến ta hoàn toàn không phải là con rối cho các nước lớn giật dây, mà  nếu hiểu lịch sử thì phải biết, chúng ta đã không chỉ một lần vượt qua sự sắp xếp của các nước lớn, để thực hiện được mục tiêu tối thượng là giành lại nền độc lập, thống nhất đất nước của mình.
***
Quay lại bàn thêm chút về minh triết. Hoàng Ngọc Hiến, một học giả được nhiều người cho là thông thái nên cũng hay bàn về minh triết. Nhưng với tôi thì thấy ông có không ít những điều nhận thức còn chưa minh triết. Hồi ông còn sống, tôi đã viết một bài phản biện bài của ông bàn về chuyện Lão Tử và Lê Quý Đôn có quan niệm khác nhau về hai khái niệm vô và hữu của tư tưởng cổ phương Đông. Hoàng Ngọc Hiến cho hai quan điểm đều tuyệt vời cả, còn tôi thì cho ý HNH vậy là phi lý, bởi hai ý ngược nhau thì một cái phải đúng, một cái phải sai! Trong bài LUẬN BÀN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ MINH TRIẾT (Góp phần định nghĩa minh triết) Hoàng Ngọc Hiến đã viết khá kỳ công nhưng tôi thấy có nhiều ý cũng lại khôngđược minh triết. Ông lấy hai ví dụ về minh triết:
-Tôi có đọc một công trình lý luận tác giả viết những trang rất hay về vấn đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc dến câu của Balzac được tác giả trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu. Giá như Mác có thêm được minh triết của Balzac chắc chắn ông suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ nghĩa Mác như chúng ta biết.
-Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy môt bức trướng ghi lai 14 lời khuyên của Phật, do Thượng tọa Kim Cương Từ sưu tầm. Câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”…

Trước hết, Hoàng Ngọc Hiến hiểu Mác như trên là không minh triết, bởi Mác không “bãi bỏ tư hữu” theo cách hiểu thô thiển như vậy. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản viết: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản là biều hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở …  những người này bóc lột những người kia. Đến tận hôm nay, vẫn còn những cuộc biểu tình chống lại “chế độ sở hữu tư sản ấy” như phong trào biểu tình “Chiếm Phố Wall” từng nổ ra ngay trong lòng nước Mỹ, của những người “đại diện cho 99%” dân lao động chống lại 1% giới tư bản tài chính và các chính trị gia, chống lại cái cơ chế xã hội “của 1%, do 1% và vì 1%” của Mỹ và thế giới tư bản nói chung.
Còn hai thí dụ trên thực chất là ngược nhau, Hoàng Ngọc Hiến cho cả hai là minh triết cũng lại không minh triết. Câu trên ca ngợi sự sở hữu, tức cái “của tôi”; còn lời khuyên của Phật: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình” nếu ai hiểu đạo Phật thì phải biết “chính mình” là cái tôi. Theo Đạo Phật cái tôi là giả tạm, ba móntham, sân, si là những “độc dược”, tạo nghiệp nặng, lại là những món nó “khoái khẩu”, mà tham liên quan đến chuyện “sở hữu”. Nói hai câu ngược nhau là vì thế.
Nói chung Minh triết là những nhận thức sáng suốt, thông thái. Phương Đông cổ thường chú ý quan hệ giữa người với người nên thường có những ý sâu sắc, sáng suốt trong việc đối nhân xử thế, cái đó đều có tính minh triết. Nói Phương đông nghiêng về minh triết là thế, nhưng không thể nói phương Đông cổ hoàn toàn không có nền triết học được. Triết học là một sự đẩy lên cao hơn, coi nhận thức là một khoa học, phương Tây đã nghiêng về điều đó. Phương Tây không chỉ tìm ra quy luật nhận thức của con người mà còn nghiên cứu mối liên hệ giữa tâm và vật, giữa con người với thiên nhiên. Vì thề phương tây có cả một lịch sử triết học với những chủ nghĩa, trường phái khác nhau.

***
Tóm lại, cái nền để một người có nhận thức minh triết chính là tri thức sâu rộng, sự từng trải. Chỉ có vậy anh mới hiểu đúng, từ hiểu đúng anh mới biết hành động sáng suốt và phù hợp. Đó chính là minh triết. Hiểu đúng còn chưa xong thì lấy đâu ra minh triết? Với một đất nước cũng vậy, chỉ có những lãnh đạo tài đức, với một xã hội có trình độ cao ở mọi mặt, sẽ có một đường lối minh triết và các biện pháp minh triết biến đường lối thành hiện thực.
Tiếc là nước ta còn chưa được như vậy nên mới có “lỗi hệ thống”. Nhưng chẩn bệnh đúng cho hiện trạng xã hội hôm nay và đưa ra được toa thuốc phù hợp cũng rất cần những tư duy minh triết.
21-7-2015
ĐÔNG LA

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

RỜI BỎ HỘI NVVN NGUYÊN NGỌC TỰ NÉM MÌNH VÀO TĂM TỐI



Lỗi lầm là của Nguyên Ngọc:
Khi Nguyên Ngọc  và một số Nhà văn cùng hội, cùng thuyền với mình ra tuyên bố thành lập “Văn Đoàn Độc lập” (Ngày 3/3/2014) -  một tổ chức ngoài Hội Nhà Văn Việt Nam,  nơi mà Nguyên Ngọc và những người kia đã từng được nuôi nấng để lớn lên trên văn đàn Việt Nam sau hòa bình (1957). Việc này làm cho dư luận thắc mắc và tự hỏi có phải Nguyên Ngọc và những người cùng phe của mình muốn đối lập với Hội Nhà Văn Việt Nam,  và ông ta chọn đây là cơ hội tốt nhất của đời ông vùng lên thoát khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam về văn học rồi từ đó ông và những kẻ cùng hội cùng thuyền của mình  với cảm hứng mới không bị đè nén bởi lý luận Cộng Sản họ sẽ có những tác phẩm tót vời, những áng văn xuất sắc có thể  tự tin thi thố với các tác phẩm được giải Nobel, làm rạng rỡ nền Văn học Việt Nam mà trước đó chưa ai làm được ngoài ông ?
Tuy nhiên đi ngược lại thời gian ta thấy những hành vi của Nguyên Ngọc làm cho những người lương thiện đặt dấu chấm hỏi nghi ngờ...


Chúng ta chưa quên khi được giao nhiệm vụ làm Tổng biên tập Báo văn nghệ và Phó tổng thư ký Hội Nhà Văn VN Nguyên Ngọc đã o bế Nguyễn Huy Thiệp (1), Phạm Thị Hoài cho đăng những chuyện ngắn, những tiểu luận chửi vung vít các Danh nhân và Lịch sử Việt Nam. Cho đến lúc Nguyễn Huy Thiệp bị bắt do vi phạm pháp luật Việt Nam khi viết lời thoại cho một bộ phim được dàn dựng và đạo diễn ở Pháp nội dung anh ta chửi bới tất cả Dân tộc Việt Nam và bị sửa đi sửa lại nhiều lần cho hợp với ý đồ xấu của họ, rồi Thiệp lén lút nhận một số tiền của kẻ đặt hàng ! Lúc này Nguyên Ngọc mới bị tổ chức phê phán và cách chức buộc rời  khỏi các vị trí quan trọng nhất trong đời văn của ông mà trước đó ông  mơ tưởng mình sẽ là người quyết định bước đi tới của sự nghiệp Văn học Việt Nam, thiên hạ sẽ nằm trong tay ông, rồi họ  sẽ ngưỡng mộ ông, coi ông là lãnh tụ tinh thần của họ !


Nguyên Ngọc cùng với những đồng đảng của mình

Nguyên Ngọc tự ném mình vào đen tối:

Lẽ ra nếu có vấn đề gì chưa ổn thỏa với Hội Nhà Văn nơi Nguyên Ngọc đã từng là người lãnh đạo, đó cũng là nơi ông được ưu đãi, được chăm sóc mà lớn lên mà trưởng thành, nơi đó Nguyên Ngọc đã được mở mang đầu óc, được học tập, được nổi tiếng thì cho dù Hội có sao đi chăng nữa, với nhân cách của người vị tha và xây dựng ông ta phải có một thái độ tử tế và lương thiện để ứng xử trong sự việc này.
Nhưng không, ông ta  liền quay ngoắt lại chống Hội Nhà Văn nhưng thực chất là chống phá Nhà nước Việt Nam; qua các tham luận tại các hội thảo Nguyên Ngọc liên tục đưa ra những khái niệm mới do ông nghĩ ra nào là “Tất cả các tác phẩm  văn học viết trong chiến tranh (Việt Nam) đều là những kiểu viết “minh họa” đầy chất đặt hàng của Đảng mà không phải viết do cảm xúc, do tình người của Nhà văn. Do đó những tác phẩm thời chiến không có giá trị, bây giờ ta phải có nhận thức mới để thoát khỏi sự can thiệp của Đảng. Những nhận định hồ đồ thiếu suy nghĩ này không biết ông ta có nghĩ tới rằng Đất Nước Đứng Lên, Rừng Xà Nu, Đường chúng ta đi, Đất Quảng (1) có phải do ông đã  ngu ngốc “minh họa”  theo đơn đặt hàng của  Đảng hay ông tự viết  ra từ cảm xúc một người lính khi đối mặt với kẻ thù gian ác mà chính ông đã từng vạch tội chúng trong các tác phẩm nói trên ?

Vì muốn trả thù Đảng do bất mãn mà Nguyên Ngọc không kiềm nổi chính mình đã điên cuồng  làm những hành vi sai trái "cho nó ra sao thì ra",  ông vội quên đi những dòng viết còn chưa ráo mực của ông rằng :Ngày xưa, người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có cán bộ… người với người mới tin yêu nhau, giúp nhau như thể anh em một nhà vậy. Đó là bản chất của Chủ Nghĩa Xã Hội chúng ta đấy bà con ạ...”. (xem Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, khi ông viết về vùng cao Mèo Vạc) .

Trước khi hô hào, vận động để thành lập Văn Đoàn Độc Lập, Nguyên Ngọc có một “âm mưu rất chiến lược” mà chỉ có người ngây thơ về chính trị mới không nhận ra: Đó là ông đi diễn thuyết từ Nam chí Bắc cao giọng hô hào, khuếch trương, ca ngợi nêu gương, tô son trát phấn cho Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, ông và đồng đảng mới của ông cho rằng Phan Châu Trinh mới là người yêu nước chân chính và nếu Dân tộc Việt Nam  biết đi theo con đường của  Phan Châu Trinh phải “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”  thì đất nước ta “sẽ không điêu tàn như ngày nay”;  cái cốt lõi của Nguyên Ngọc muốn làm là phủ định sạch trơn Chủ nghĩa Xã Hội ở Việt Nam,  phủ định sự lãnh đạo Đảng Cộng Sản ở Việt Nam  và cuối cùng Nguyên Ngọc cũng không còn dấu nổi hành vi phản đảng tất yếu của mình: “ló cái đuôi con hồ ly tinh” mà bao năm y dấu kín, là thò tay ký “Bản góp ý  Sửa đổi Hiến Pháp 2013” mà trong đó Ngọc cùng phe lũ phủ định hoàn toàn Đảng Cộng Sản, như bỏ điều 4 trong Hiến Pháp,  chấp nhận đa nguyên, đa đảng, đổi tên nước, thay quốc kỳ, lập lưỡng viện, thực hiện tam quyền phân lập v.v...
Nhận thức lại hay sự phục thù:

Nguyên Ngọc và những người "dân chủ" thường cùng "Anh thư " Bùi Thị Hằng xuống đường biểu tình chống Trung Quốc, ra nhiều yêu sách đòi Việt Nam phải đánh Trung Quốc đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa. Ông cũng kiện Truyền hình HN vì đã gọi ông và Nguyễn Huệ Chi là "những tên phản động"
Tuyên bố thành lập “Văn đoàn độc lập”  Nguyên Ngọc đưa ra cái lý do:” Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc. Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình…”


Nguyên Ngọc đưa ra cái lý do rất kỳ quái và giả dối, thực tế từ sau khi thống nhất đất nước  đội ngũ những nhà viết văn chúng ta ngày càng đông đảo bao gồm nhiều nhà văn viết dưới chế độ cũ, và đóng góp nhiều tác phẩm văn học có giá trị được dư luận và bạn đọc trong nước, ngoài nước hoan nghênh và cỗ vũ. Nhiều thành viên của Hội nhà văn được đào tạo chính quy ở trong nước hoặc nước ngoài, quan hệ giao lưu giữa Hội và Quốc tế bè bạn ngày một  cởi mở, đổi mới. Bỗng nhiên Nguyên Ngọc giả vờ thức tỉnh và phủ định sạch trơn những thành tựu văn học kháng chiến trong đó có những tác phẩm của chính mình. Nguyên Ngọc đã bất lương kéo còi báo động giả, vì  không hề có  chuyện làm cho  Nguyên Ngọc và những kẻ đồng đảng “lo lắng đầy trách nhiệm” là hiện nay Văn học Việt nam đã “đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất…” và  “ đã  lộ rõ nguy cơ uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc”.
Chính Nguyên Ngọc  và đồng đảng mới là nhân tố xấu kích động cho sự mất an toàn của sự tồn vong của nền văn học Việt Nam qua  việc bọn họ ca ngợi, khuyến khích, o bế đánh giá cao, kết bè với nhóm văn chương quái gỡ Mở Miệng nơi mà từ ngữ trên thơ văn được cho là “thơ rác, thơ thối” vô cùng  bẩn thỉu tục tĩu của nhóm thơ này  nó được bày trên “bàn tiệc thơ”  mà thực khách là  Nguyên Ngọc cùng đồng lõa đã khoái trá thưởng thức những bộ phận sinh dục, những kiểu làm tình của loài dê chó, những câu thơ mà chính cha mẹ, người thân của các “nhà thơ Mở Miệng”  đó (Khúc Duy, Bùi Chắt, Lý Đợi, Nguyễn Quán) cũng phải quay mặt buồn nôn, khinh bỉ và  nguyền rủa !!! Vậy thì cái “nguy cơ của tồn vong dân tộc” do Nguyên Ngọc tuyên bố là láo toét, là  giả  nó xuất phát từ trái tim đen tối, hằn học muốn trả thù cho bỏ tức, nham hiểm hèn hạ ứng dụng theo hành vi của loại côn đồ ở chợ Cầu Muối như người Sài Gòn thường ví von cho kẻ bất lương giả dạng tử tế !  cuối cùng "tham vọng soán ngôi của rác thối" do Nguyên Ngọc và đồng đảng đề xướng đã bị thất bại và bị dư luận lương thiện lên án gay gắt, Nguyên Ngọc một ông già hơn 80 tuổi đã điên dại bán danh dự mình cho lũ trẻ vô giáo dục, càn quấy trong cái gọi là "Nhóm Mở Miệng" !
Nguyên Ngọc luôn luôn dẫn đầu các đoàn biểu tình ở Hà Nội để hô hào chống Trung Quốc, mục đích chính của ông ta và bè lũ là phá hoại Chính sách kiên trì giữ gìn hòa bình của Chính phủ Việt Nam qua các sự cố biên giới và biển đông, việc làm của Nguyên Ngọc lộ rõ bản chất lưu manh, thấp kém của một người đã được Cách mạng nuôi dưỡng, giáo dục từ năm ông ta 13 tuổi đến giờ mà vẫn không tiến bộ.



Tại sao Nguyên Ngọc lại quay ngoắt lại như vậy:
Mọi chuyện đều có nguyên nhân chính của nó, như tôi đã nói ở trên, khi bị buộc từ chức Tổng Biên tập báo Văn Nghệ và cách chức Phó TTK Hội Nhà Văn, vì những sai lầm có tính nguyên tắc, Nguyên Ngọc về hưu ôm khối hận thù  chờ cho đến một ngày... 10 năm sau mới trả…
Năm 2000 Nguyên Ngọc được mời nhận Huân chương Độc Lập hạng nhì, nhưng từ chối không nhận, bác bỏ nó vì có hai lý do mà mọi người ở làng văn đều biết: Nguyên Ngọc tự cho mình phải được hạng nhất, có cống hiến nhiều thế, có nằm gai, nếm mật nhiều thế sao lại hạng nhì, thế đứa nào là hạng nhất. Nhưng thực tế năm đó không có ai  giành hạng nhất. Người ta biết thừa rằng  Nguyên Ngọc bực tức, bất mãn đến điên cuồng vì các thành viên trong Đội đồng xét duyệt các Giải thưởng văn học năm ấy không bỏ phiếu cho ông để được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh! Và sau đó còn vài giải nữa Nguyên Ngọc đều tẩy chay cho mình phải là người đoạt hạng nhất, hạng thấp hơn là đồ bỏ, ông không nhận. Ông ta muốn mọi người tôn sùng ông, coi ông là lãnh tụ văn học, ông phải là con người quyết định mọi việc cho người khác, không ai có quyền quyết định ông.
Nguyên Ngọc là người có bản tính cố chấp đến cùng; trong một bài viết nịnh Nguyên Ngọc nhưng Trần Đăng Khoa cũng đành phải buột miệng: “Nguyên Ngọc  gàn lắm! Cực đoan lắm. Có người bảo, Nguyên Ngọc đã quyết cái gì thì không ai có thể ngăn cản nổi. Có túm tay ông kéo lại thì lập tức ông hoá thành anh La Văn Cầu, rút mã tấu chặt phéng ngay cái cánh tay bị níu giữ ấy ngay...” Đúng thật vậy Nguyên Ngọc đã trải qua hết sai lầm này đến sai lầm khác mà ông không hề biết dừng lại dằn mình xuống tự vấn, cho dù biết là mình đã sai lầm  nhưng vẫn điên dại lao lên làm bậy như một con thiêu thân, ông thật là có cái "cốt cách gian manh của Tào Tháo" Nhưng Tào Tháo khi biết mình sai tuy không nói ra nhưng Tháo còn cố sửa chữa cái sai ấy, còn Nguyên Ngọc luôn vênh vang cho mình là người không bao giờ sai, không ai được nói ông sai, ông là mẫu mực, là bất khả phê phán. ông đứng trên tất cả mọi người !


Văn đoàn độc lập, nơi tụ tập, kết bè của kẻ bất mãn, bọn chống phá, lũ chiêu hồi để trả khối hận thù chứ không phải vì nền Văn học chân chính:

Người ta đọc danh sách 61 người ký tên vào bản tuyên bố thành lập Văn Đoàn Độc lập không rõ từ ấy đến nay có thêm nhân vật nào ký tên thêm nữa không chỉ biết có một người đã chết (Bùi Ngọc Tấn) vài người vào tù, và có một số người rút tên khỏi hội của Nguyên Ngọc đó là: Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Trần Kỳ Trung. Lướt qua 61 gương mặt  Nhà Văn ấy ta thấy ít nhất là 15 người đã từng vào tù vô khám vì lý do làm gián điệp cho nước ngoài, tham nhũng, lợi dụng tự do để viết bậy, vài người là chiêu hồi chạy trốn đang sống lưu vong ở nước ngoài, 12 người là  gốc Việt có quốc tịch nước ngoài. Hầu hết họ đều là những người có ân oán với Dân tộc ! Những nhà văn nói trên trừ Nguyên Ngọc chẳng ai có gương mặt sáng sủa và có tác phẩm nào đáng giá để cho công chúng đọc. Nếu có chăng là  một vài tác giả vì “nhận thức lại” đã bị khai trừ khỏi đảng như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lính, Hoàng Hưng… Điều làm chúng ta chú ý là trong danh sách trên có nhiều người có quốc tịch nước ngoài cũng đã có dày dạn “thành tích” chống phá Tổ Quốc nhưng lại có tiềm năng kinh tế, Nguyên Ngọc láu cá bắt được cả hai tay: Vừa có ý “hòa hợp hòa giải” một động thái  xu nịnh bọn chống Cộng ở nước ngoài, vừa kiếm  được chỗ tài trợ cho hội của ông !


Một năm đi hai dây.

Tính từ ngày 3/3/2014 khi ra tuyên ngôn thành lập, chưa thấy hội của Nguyên Ngọc làm thêm được cái trò gì, chỉ với một vài giải thích khiến người ta nghĩ đây là hội hè của bọn lừa đảo là: "Hội này không có mâu thuẫn, cạnh tranh hay đối lập với Hội nhà Văn Việt Nam", bọn họ tỏ vẻ yên hùng nhưng lại hèn nhát sợ bị  Pháp luật Việt Nam trừng trị, vì theo luật Việt Nam khi anh muốn lập hội có tầm Quốc Gia phải được sự chấp thuận và ra quyết định của chính quyền cấp Nhà Nước, nếu chưa có Quyết định thì  mọi hoạt động đều bị coi là ngoài vòng pháp luật. Nguyên Ngọc cũng tự cho mình là “kẻ có tóc” nên y phải rình rập nghe ngóng rồi mới dám đi bước nữa. Tấm gương nhãn tiền của Hội "Những người kháng chiến cũ” còn đó: Những nhân vật cộm cán “vua biết mặt, chúa biết tên” như Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Nam Khánh... hễ cà chớn chống lại Nhà nước đến mức làm mất an toàn chế độ  thì… còn có thể bị tống vào tù chứ thá gì cái thứ loại ba như Nguyên Ngọc !



Cái mốc là ngày 5/5/2015 tại đại hội Nhà văn  Cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh, để tiến tới Đại hội Nhà văn Toàn quốc vào tháng 7/2015. Dách sách các Nhà văn  vừa có tên trong Hội Nhà Văn Việt Nam vừa có tên  trong  Văn Đoàn Độc Lập yêu cầu bị gạch tên không để chúng tham dự Hội Nhà văn VN nhiệm kỳ này. Có tiếng bấc, tiếng chì trong vấn đề này nhưng tôi nghĩ việc gạch tên chúng là hoàn toàn đúng. Vì theo Tuyên bố của  Văn Đoàn Độc lập có nói rõ: “ Ở trong hội Nhà văn Việt Nam các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng. Quyền tự do sáng tác và tự do công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có những quyền tự do tối thiểu đó thì không thể có một nền văn học đàng hoàng…”
Tuy nhiên cả hai phía đều im lặng hàng năm trời, chỉ khi Đại hội Nhà Văn Thành Phố Hồ Chí Minh  gạch tên những thành viên của Văn Đoàn Độc Lập thì lập tức (11/5) có 20 người vừa tham gia Hội Nhà văn Việt Nam vừa tham gia Văn đoàn độc lập hoảng hốt ra tuyên bố  rời bỏ Hội Nhà văn Việt Nam trong đó có Nguyên Ngọc, hai mươi người này đã chơi trò xiếc đi trên dây từ ngày ra tuyến bố thành lập Văn Đoàn Độc Lập (3/3/2015) tới giờ. Có lẽ bọn họ vừa lo lắng, vừa âm thầm chờ đợi sự xuống thang, lời mời mọc vỗ về, kèm theo lời hứa hẹn của Hội Nhà Văn Việt Nam giành họ một chỗ đứng xứng tầm với họ, nếu như không muốn sập tiệm, tan tành vá may! Qua việc này mới thấy Nguyên Ngọc kẻ luôn kiêu căng cho mình là có “tầm cao” nhưng thật ra không phải như thế…Vì không lương thiện nên các mưu mô gian xảo đều dẫn đến trò chơi lạc nước rồi... cụ Nguyên Ngọc ơi !


Số phận của cái gọi là Văn đoàn Độc Lập:

Năm 1990 -1991, khi Đảng Cộng Sản Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì dư chấn của nó lay chuyển đến tận Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn 400 ngàn Đảng Viên tự rời bỏ Đảng, có người ra tuyên bố công khai, có người lẳng lặng chuồn. Nhiều người tưởng rằng rồi Đảng CSVN cũng sẽ bị sụp đổ như Liên Xô vậy, nhưng đâu có chuyện đó, chỉ thấy thấm thía là cuộc đời này vẫn có nhiều những anh chàng sống theo “thế thái nhân tình”…có ăn thì nhào vô kiếm chác, có khó khăn thì mạnh thằng nào thằng ấy chạy, sống chết mặc bay, nhưng mồm thì luôn rao giảng  đạo đức làm người…Những người rời bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam chính là những kẻ như vậy !

Mới đây chỉ mới một năm, Đảng viên có 40 năm tuổi đảng: Lê Hiếu Đằng đang yên lành, bị kẻ xấu chọc ngoái, bỗng ông ta bật lên như cái lò xo, rồi om sòm chửi bới, nguyền rủa  và tẩy chay đảng, kết tội Đảng CSVN là “độc ác hơn Ngụy”,  ông tố cáo Đảng CSVN “đã lừa ông từ một Sinh viên ở đô thị miền Nam đang sống tự do và sung sướng bỏ chạy vào bưng biền, hy sinh chiến đấu, chịu hiểm nguy và đói khát gần chục năm trời mà khi ra Thành phố thì cả ông và nhân dân ông  không kiếm được gì...” Cho nên ông tuyên bố  rời bỏ đảng, thành lập đảng Dân chủ Xã hội “để cho Đảng biết mặt ông” và "sau khi tôi ra khỏi đảng rồi sẽ có hàng triệu người noi gương tôi cũng  sẽ bỏ đảng, nên đảng nhất định sụp tiệm" ! Lê Hiếu Đằng già cả thành lú, ông không thuộc câu ngạn ngữ Việt Nam "Không mợ thì chợ vẫn đông, mợ đi đánh đĩ chăng mong mợ về."

Sau đó vài tháng thì Lê Hiếu Đằng chết, mộng bá vương khi đã ở tuổi 70  đã tan vỡ theo căn bệnh ung thư tiền liệt tuyết quái ác, nếu không có nó thì…Cộng Sản sẽ toi đời trước ông !

Số phận của Nguyên Ngọc và cái Văn Đoàn Độc lập của ông nhất định cũng cùng chung số phận với Lê Hiếu Đằng, bởi những người lập ra nó, đều có mục đích tăm tối, hận thù, phiêu lưu của kẻ lang bạt; bọn họ đã rất già nua cả tâm hồn và sức lực (Nguyên Ngọc 84) còn tài năng và nhân cách thì còn thấp kém hơn cả Lê Hiếu Đằng.


Chế Trung Hiếu.


---------------------------------------------------------------------
(1) Nguyễn Huy Thiệp đã từng nhận định về Hội Nhà Văn Việt Nam rằng: "...Nhìn vào danh sách 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều..."vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả..."
(2) Những tác phẩm văn học của Nguyên Ngọc, riêng Đất Quảng ông chỉ viết đến Tập 1..

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

TẠI SAO TÀI KHOẢN CỦA NGUYỄN THANH GIANG BỊ BLOCK Ở NGÂN HÀNG VCB

     Mấy hôm nay trên mạng Internet lùm xùm chuyện cô Lê Thị Công Nhân tố cáo “Ngân hàng Vietcombank khóa tài khoản khách hàng theo lệnh tùy tiện của Bộ Công an” khiến tôi phải cất công tìm hiểu qua một ông bạn già vốn hay qua lại nhà ông Thanh Giang từ lâu để hiểu thực hư sự việc này. Hóa ra sự thật là cách đây 4,5 năm gì đó, Ngân hàng VCB này đã khóa tài khoản nhận tiền từ nước ngoài của ông Giang, khoản tiền bị ngâm ở đó là từ ông Nguyễn Gia Kiểng gửi phục vu làm Tập san Tổ quốc, nghe đâu cũng chừng mấy ngàn đô, khá lớn so với thời giá bấy giờ! Hèn chi.

Trở lại những năm đó, ông Nguyễn Thanh Giang bị hàng loạt báo Công an Nhân dân, Hà Nội Mới…liên tục tung ra những bài viết tố ông này ăn chặn tiền đồng bọn trong việc “thầu” phát hành tờ báo có tên “Tập san Tổ quốc” hợp tác với “Tập hợp dân chủ đa nguyên” của ông Nguyễn Gia Kiểng ở Pháp.

    Theo bài báo Bóc trần bộ mặt kẻ chống phá Nhà nước trên báo Hà Nội mới có cho biết chi tiết việc ông Nguyễn Thanh Giang nhận và phân phối tiền của ông Nguyễn Gia Kiểng: “Ngày 26-11-2008, cơ quan điều tra Công an Hà Nội đã khám nhà, thu trên 10 kg tài liệu và nhiều phương tiện phản ánh hoạt động vi phạm pháp luật của Nguyễn Thanh Giang, đáng chú ý phát hiện tài liệu hạch toán thu chi của ấn phẩm trái phép "Tập san Tổ quốc", giấy biên nhận tiền của một số đối tượng chống đối, cơ hội chính trị, danh sách phát tiền cho số gọi là "công tác viên"…
   Nguyễn Thanh Giang tự phong là chủ nhiệm cái gọi là "Tập san Tổ quốc" phát tán các bài viết trên mạng, sau đó tải xuống để in ấn, phát hành trái phép 54 số nhờ sự "chống lưng" và "rót ngoại tệ " của Nguyễn Gia Kiểng - một đối tượng sặc mùi phản động, cầm đầu tổ chức phản động lưu vong "Tập hợp dân chủ đa nguyên" ở Pháp. Nguyễn Gia Kiểng đã rót cho Nguyễn Thanh Giang 125 triệu đồng để "nuôi" cái ấn phẩm phản động này. Không rõ thực chi cụ thể ra sao, tư túi thế nào, nhưng Nguyễn Thanh Giang chỉ báo cáo một cách mập mờ với Kiểng là đã dành 46 triệu đồng để trả nhuận bút và tài trợ cho một số cá nhân là các phần tử cơ hội chính trị trong nước tham gia viết bài như Trần Lâm, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận… (Hải Phòng), Hà Sỹ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc (Lâm Đồng), Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thượng Long, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Trần Khải Thanh Thủy, Vũ Hùng, Phan Văn Hồng, Nguyễn Phương Anh (Hà Nội), Nguyễn Kim Nhàn (Bắc Giang), Trần Đức Thạch (Nghệ An)... Bản thân "nhà tài trợ" Nguyễn Gia Kiểng cũng trực tiếp phân phát cho Trần Anh Kim, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Văn Tính 10,2 triệu đồng; hỗ trợ Nguyễn Kim Nhàn, Võ Văn Nghệ để tán phát cái gọi là "Tập san Tổ quốc" là 4,8 triệu đồng.
Để ra vẻ có ban bệ, quy mô hoành tráng nhằm che mắt thiên hạ và lấy oai với các tổ chức phản động khác, Nguyễn Thanh Giang tự thành lập một Ban biên tập, rồi Hội đồng cố vấn của cái "tập san" này gồm các nhân vật như Phạm Quế Dương, Trần Lâm, Bùi Tín, Nguyễn Phương Anh, Phạm Hồng Đức, Phan Thế Hải, Nguyễn Văn Hiệp, Việt Hoàng, Vi Đức Hồi, Nguyễn Chính Kết, Trần Anh Kim, Nguyễn Thượng Long, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận, Huỳnh Tâm, Trần Khải Thanh Thủy, Phạm Việt Minh. Nhưng thực chất, "sếp tổng" hay người có quyền lực cao nhất chính là Nguyễn Gia Kiểng. Kiểng giao cho Nguyễn Thanh Giang và Trương Nhân Tuấn (một phần tử cơ hội chính trị có tên trong "Tập hợp dân chủ đa nguyên") điều hành mọi việc”. 
Như vậy, nhiều khả năng khoản tiền bị phong tỏa nhiều năm qua liên quan trực tiếp đến khoản tiền làm “Tập san Tổ quốc” này. Sau cuộc chiến tơi bời giữa Nguyễn Thanh Giang với phe cánh của Nguyễn Khắc Toàn, Đỗ Nam Hải, Hoàng Tiến…phơi bày ông này chuyên gia ăn chặn tiền đồng bọn từ việc phân bổ in ấn “Tập san Tổ quốc”, tiền giải thưởng nhân quyền, tiền hải ngoại quyên góp hỗ trợ cho số đi tù…Trong số đó đình đám nhất là chuyện ông Hoàng Tiến tố cáo ông Thanh Giang ăn chặn tiền giải thưởng nhân quyền của ông Trần Dũng Tiến khi ông này trong tù, sau khi ra tù 2 năm bị Hoàng Tiến phát giác nên Thanh Giang phải mang tiền đến trả cho ông Hoàng Tiến. Vụ việc khác lùm xùm không kém là khoàn tiền hải ngoại hỗ trợ cho ông Trần Anh Kim trong tù, ông Thanh Giang nhất định không chịu chuyển cho vợ ông Kim để thăm nuôi, lấy cớ cô này còn trẻ, giữ tiền cho ông Kim sau này ra tù hưởng khiến nhiều ông bà hải ngoại nổi xung, lên án gây áp lực ông Giang phải xuất tiền để vợ ông này nuôi ông Kim còn sống đến khi ra tù, thiếu đâu hải ngoại sẽ quyên góp tiếp. Tuy nhiên nghe đâu, dù vợ ông Kim nhờ nhiều người tác động mà ông Giang vẫn quyết không chịu xuất tiền, nguyên nhân được cho rằng vợ ông Kim không “biết điều”, cắt lại phần trăm cho ông Giang nên …đừng hòng nhận tiền hỗ trợ!!!
  Sau nhiều phi vụ liên tiếp như vậy nên ông “Viện sỹ Viên hàn lâm Hoa Kỳ trị giá 100 USD” này bị mất uy tín nghiêm trọng, không ai muốn gửi tiền qua cửa ông này nữa. Sau đó, nghe đâu, ông Thanh Giang định khởi xướng lập “Quỹ hỗ trợ dân chủ” gì đó, thông báo ban bệ rầm rĩ những chắc chẳng ai chịu gửi gắm nên quỹ này chết yểu. Từ đó ít ai nghe thấy tiếng tăm ông này, trừ vài bài viết “bất mãn dân chủ” chửi Cờ vàng và đám zân chủ hậu bối bạc bẽo, cơ hội, tráo trở…hay định kỳ quanh đi quẩn lại mấy chuyện ủng hộ ông Nguyễn Tấn Dũng làm Tổng bí thư, hạ bệ ông Tổng Bí thư hiện tại.
Cô “Thánh nữ” một thời Lê Thị Công Nhân cũng chìm xuồng lâu này cùng với ông Thanh Giang – nghe đâu là người cô này rất kính trọng, cũng do dính đến các chuyện lừa tình lừa tiền, bị tố cáo, vạch mặt không thanh minh nổi. Cô này thậm chí không dám dùng facebook, blog, điều phối hoạt động của “Quỹ Bầu bí tương thân” qua chồng Ngô Quyền, trình độ viết bài xem ra ngày càng đi xuống hơn. Bài viết đăng trên Dân luận không dám đề cập đến nguồn gốc số tiền của ông Thanh Giang bị phong tỏa, nhưng hô hào tụ tập, biểu tình yểm trợ ông Thanh Giang vào “4h chiều ngày 12.5.2015 tại Vietcombank Thanh Xuân – 448 Nguyễn Trãi, Hà Nội” trong khi ông này nhận thông báo từ ngân hàng trả lời về việc tài khoản bị phong tỏa.
Xem ra vụ việc này còn nhiều chuyện hấp hẫn khi cùng xem thầy trò Thanh Giang - Công Nhân tự mình thu hút truyền thông phơi bày quá khứ “thầu” tiền hải ngoại-ăn chặn lộ liễu-công an ra tay và ngân hàng hớt tay trên rồi báo chí bạch hóa!!!

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

CHÚNG TÔI ĐÃ CHIẾN ĐẤU CHO Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN NHƯ THẾ NÀO ?



Vào ngày này, 30/4/1975 lúc 11 giờ 30 phút lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam  ngạo nghễ tung bay trên nóc Dinh Độc Lập hang ổ cuối cùng của chính quyền Ngụy-Sài Gòn, giờ phút thiêng liêng, cảm động nhất của Dân Tộc đánh dấu thắng lợi cuối cùng của quân và dân Việt Nam đã hy sinh chiến đấu ròng rã 117 năm kể từ ngày 1/9/1858 khi mà tên thực dân Pháp đầu tiên bắt đầu đổ bộ lên Đà Nẵng tiến hành xâm lược  và cai trị nước ta cho đến khi tên lính  tay sai ngoại bang Ngụy- Sài Gòn buông súng đầu hàng.



Xe tăng QGP tràn ngập vào Dinh Độc Lập bắt Chính phủ Ngụy đầu hàng lúc 11:30 ngày 30.4.1975
Trong bài hát Giải phóng miền Nam của Nhạc sĩ Huỳnh Minh Siêng có đoạn:”Vận nước đã đến rồi, bình minh chiếu khắp nơi, dựng xây non nước sáng tươi muôn đời…”. Đúng là vận nước đã đến rồi… nên chúng ta mới có chiến thắng to lớn và huy hoàng đến thế. Ai đã ở chiến trường miền Nam trong khoảng thời gian từ 1965-1975 sẽ thấy  cái gọi “Quân lực VNCH” và “Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh”  có sức mạnh đến dường nào! Với một triệu quân Ngụy, 80 vạn lính Mỹ và chư hầu được trang bị cực kỳ hiện đại có sức cơ động mau lẹ bằng máy bay trực thăng và cơ giới, quân Mỹ-Ngụy rải ra chiếm đóng hầu hết các vùng trọng yếu chiến lược của chiến trường. Mỹ-Ngụy đã xây dựng một hệ thống đồn bót dày đặc khắp nơi ở miền Nam án ngữ và cắt đứt các con đường tiếp tế từ nông thôn miền Nam cho quân đội Giải phóng, hỏa lực pháo binh của căn cứ này có thế tác xạ ngay lên căn cứ kia nếu bị QGP tràn ngập sau khi quân Mỹ-Ngụy đóng ở đó kịp rút xuống hệ thống hầm ngầm. Chúng ta thử xem sơ đồ bố trí quân lính và công sự của  một Chi khu quân sự  thì ta thấy nó không khác gì chiến thuật bố trí phòng ngự của căn cứ Điện Biên Phủ (1954) , nhiều Chi khu Quân sự của Mỹ-Ngụy còn được xây dựng vững chắc và liên hoàn hơn tập đoàn căn cứ Điện Biên Phủ của quân Pháp đó là các chi khu quân sự Thượng Đức (Quảng Nam), Hướng Hóa (Quảng Trị), Mai Lĩnh (Quảng Trị), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Dakto (Kon tum), Buôn Hồ (Dak Lak), Plei Cần (Kon Tum)…trên khắp miền Nam Mỹ - Ngụy đã xây dựng hơn 200 chi khu quân sự vững chắc  như thế.

Đó là chưa kể đến hàng trăm căn cứ quân sự Mỹ lớn có tầm cỡ các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Châu Âu như: Khe Sanh, Làng Vây, Dốc Miếu, Chu Lai, Đà Nẵng, Gò Hội, Phù Cát, Dak –To, Plei-me, Bàu Bàng, Biên Hòa, Xuân Lộc, Đức Hòa, Đồng Xoài, Biên Hòa, Trà Nóc
Với so sánh lực lượng quân sự như vậy mà sau 8 năm (1965-1973) trực tiếp xâm lược bằng bộ binh Đế Quốc Mỹ phải rút quân mang về Mỹ 58 ngàn chiếc quan tài bằng kẽm chứa xác lính Mỹ chết trận
và hàng trăm ngàn tên Mỹ khác bị loại khỏi vòng chiến đấu, bàn giao lại tất cả vũ khí, hạ tầng quân sự cho Ngụy Quân, giữ lại các cố vấn quân sự cùng với viện trợ hàng tỷ đô-la mỗi năm. Nhưng chỉ với một trận 11/3/1975 Quân Giải phòng “Chặt Buôn Ma Thuột đứt cả Tây Nguyên”. Quân Ngụy ùn ùn tháo chạy như một bầy lừa ngựa không có người cai quản trên thảo nguyên xinh đẹp miền Trung Việt Nam. Câu hỏi đặt ra cho tất cả chúng ta là  Nguyên nhân nào đã làm cho chúng lại thất bại ô nhục như vậy ? Và chúng ta cần phải phân tích một cách biện chứng để tìm thấy sức mạnh thật sự của mỗi bên là những nhân tố nào ?

1/Quân đội VNCH  thực sự có mạnh không ?
 * Quân đội Ngụy-VNCH sinh ra từ đâu bản chất nó như thế nào:
Tổ chức Quân đội cũng giống như một cơ thể của một con người, những nhân tố sinh ra nó nếu khỏe mạnh, hay ốm yếu đều quyết định đến "Sức khỏe và Vận mệnh" của nó !


Chúng ta biết rằng sau khi tiến hành phế truất Bảo Đại  thông qua một cuộc Trưng cầu ý dân đại bịp bợm và đại gian trá vào ngày 23/10/1955 Ngô Đình Diệm ngay lập tức cho thành lập Quân đội VNCH nhưng thực chất chỉ là đổi tên cái gọi là Quân đội Quốc gia, là quân đội tay sai do thực dân Pháp xây dựng và nuôi dưỡng, 100% tướng lĩnh và sĩ quan của tổ chức quân sự này đều do thực dân Pháp đào tạo và cất nhắc; quyết định thành lập "Quân đội Quốc Gia" cũng được Quốc hội Pháp ra quyết định. Trước đó Quân đội Quốc gia là các lực lượng Khố Xanh, Khố Đỏ và các Sư đoàn Tự vệ Công giáo ở Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình...Chúng
đã thi hành chính sách tàn sát, khủng bố dã man người Việt Nam nào dám đứng lên chống lại sự cai trị của Thực dân Pháp một cách dã man theo lệnh của thực dân Pháp, mặc dù được Pháp nuôi dưỡng, đào tạo và trang bị  nhưng nó đã bị đánh bại khắp nơi từ đồng bằng Bắc bộ đến  miền Trung và Cao nguyên trung phần. Sau năm 1956-1958 Diệm tiêu diệt xong các nhóm phiến loạn miền Tây, thì Diệm lại sát nhập tàn quân của các sư đoàn thuộc lực lượng Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài vào lực lượng VNCH, cho nên có thể nói Quân Ngụy là đội quân ô hợp, bởi các lực lượng tôn giáo nói trên đều là loại anh chị, bụi đời, đá cá lăn dưa, du thủ, du thực, lưu manh và trộm cướp. Mặc dù được đổi tên nhưng Bản Chất đội quân này vẫn không hề thay đổi, tâm lý là lính đánh thuê, làm bia đỡ đạn cho ngoại bang, cầm súng Mỹ bắn giết người cùng nòi giống đã làm cho đội quân này không có ý chí chiến đấu vì chính nghĩa và luôn luôn thực hiện mệnh lệnh của quân Mỹ để tiến hành các cuộc càn quét vào làng mạc miền Nam để khu trục lực lượng Quân giải phóng, dìm phong trào chống xâm lược của nhân dân miền Nam vào biển máu, chúng bắn giết bừa bãi, tiến hành nhiều vụ thảm sát dân lành mà cả thế giới văn minh đều biết, đều ghi chép đến những tội ác trời không dung, đất không tha này.
QGP Thực hiện tước vũ khí của Quân Ngụy đang bảo vệ Dinh Tổng Thống trưa 30/4/1975

Đến khi Diệm -Nhu bị giết số quân của Mỹ tại miền Nam đã lến đến 23.000 tên (Theo hồi ký của Trung Tướng Ngụy-Đỗ Mậu- Con số thật còn bị giấu diếm). Khi  hành quân càn quét đều được Cố vấn Quân sự Mỹ chỉ huy đến tận tiểu đoàn, vì hèn nhát nên chúng luôn dùng bom đạn  hạng nặng dọn đường, thả bom bắn phá bừa bãi vào làng mạc, nông thôn miền Nam, đi đến đâu chúng đều xả súng tàn sát người vô tội, rồi đốt nhà, cướp của, hiếp dâm phụ nữ làm cho người dân sợ hãi phải chạy vào các khu dồn dân của chúng xây dựng sẵn nhằm chia cắt Nhân dân với Cách mạng. Những vụ thảm sát dã man do quân Ngụy gây ra  ở Vĩnh Trinh (Duy Xuyên), Chợ Được (Thăng Bình), Bình Hòa, Bình Thủy (Bình Sơn), Hà Tây, Diên Niên, Thọ Lộc, Sơn M (Sơn Tịnh), Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Lâm Hạ (Mộ Đức), Giồng Trôm, Thạnh Phong (Bến Tre), Nhơn Phước (Bình Định), Phú Lợi (Bình Dương), Hòn Đất (Kiên Giang)...đã phơi bày bộ mặt thật gian ác, khát máu của chúng; hành vi tội ác đó không những không làm cho đồng bào ta ở miền Nam sợ hãi mà ngược lại nó làm tăng lên lòng căm thù Mỹ-Ngụy đến ngút trời; Chế độ Diệm cùng quân đội đê hèn của nó  đến tận bây giờ vẫn bị loài người tiến bộ trên thế giới nguyền rủa  và lên án.


Lính Ngụy tra tấn một Nông dân khi chúng nghi là Việt Cộng

* Đoàn kết quân-dân của Quân Nguy - VNCH như thế nào:
Có thể nói 95% bính lính Nguy-VNCH cùng đều sinh ra lớn lên tại miền Nam, họ đều xuất thân trong những gia đình nông dân nghèo khổ ở vùng Duyên hải miền Trung, hay  Cao nguyên Trung phần, hoặc từ vùng quê Nam Bộ, họ đều được hưởng bản tính  hiền lành, trung thực và cần cù lao động của người dân nơi họ sinh ra. Bỗng chốc họ bị lừa dối và bị đẩy vào biên chế các đơn vị quân Ngụy-VNCH họ đều bị nhồi sọ và học tập bản lĩnh tàn ác và tham lam của quân Xâm lược Pháp và Mỹ trong các thao trường hay Trung tâm huấn luyện võ bị, mới đó anh ta chỉ một nông dân hiền lành mấy hôm sau gặp lại hắn đã trở thành tên lính ngụy ngông nghênh với bộ quân phục rằn ri và chiếc mũ nồi đội lệch, nện gót hống hách trong đôi giày đinh kiểu lính Mỹ,
coi trời bằng vung, hung hăng như một tên côn đồ có vũ trang thực thụ !


Nội bộ của Quân đội Ngụy Sài Gòn luôn luôn mâu thuẫn nhau, binh chủng này mâu thuẫn với binh chủng kia, Lính Dù và Thủy Quân Lục Chiến thường hống hách tự cho mình là con cưng của Diệm-Thiu, trong khi Biệt Động Quân cho mình là thiện chiến, gan dạ nhiều khi chúng chống lệnh chi viện cho nhau trên mặt trận hoặc đem quân dàn trận đánh lẫn nhau như kẻ thù...Sau những đợt càn quét trên chiến trường về thành phố, binh lính ngụy của các binh chủng thường tỏ ra bất cần và hách dịch,
chúng lộng hành, lưu manh, cà chớn, ăn quỵt, gây gỗ, cướp bóc, quậy phá, chơi gái... làm cho nhân dân ở các đô thị miền Nam vô cùng khinh b và căm ghét.


Quan hệ giữa sĩ quan và lính tráng là quan hệ chủ tớ luôn luôn thù hằn và chia rẽ. Chỉ huy có thể bắn chết binh sĩ mà không bị ra tòa,
Sĩ quan Ngụy thường lợi dụng chính sách lương bỗng cao của vợ và con nên thường hối lộ cấp trên để khai vống đông con, thậm chí có tên khai tới 15, 16 đứa con để lãnh lương; lính theo đạo Công giáo được coi trọng hơn lính theo các Tôn giáo khác và được ưu đãi cất nhắc lên các địa  vị cao hơn nhưng lại ít bị đưa ra mặt trận điều này cũng gây ra sự mâu thuẫn rất lớn trong nội bộ binh lính Ngụy.

Lính Ngụy luôn dẫn đường cho Quân Mỹ thực hiện các vụ thảm sát - Hiện trường vụ thảm sát Sơn Mỹ  ngày 16/3/1968 do tên Calley chỉ huy có sự cộng tác, dẫn đường và phối hợp của binh lính Ngụy thuốc Trung đoàn 2 Sư đoàn 2 Ngụy Sài gòn

Binh lính ngụy từ Sĩ quan đến lính tráng còn là một tổ chức buôn lậu rất lớn. Nguyễn Cao Kỳ cùng vợ và cận vệ thường đi buôn lậu ma-túy, thậm chí dùng cả máy bay quân s đi Tam Giác Vàng (Biên giới giữa Lào, Thái Lan và Myanmar) để thực hiện những thương vụ ma-túy lớn rồi đem về bán cho binh lính Mỹ-Ngụy hay chợ đen làm giàu nhanh chóng (xem hồi ký của Trung tướng Ngụy-Đỗ Mậu). Những năm Mỹ đánh phá các tuyến đường chi viện cho Cách mạng miền Nam, QGP gặp rất nhiều khó khăn về lương thực, thuốc men và trang bị nhưng nhờ có sự buôn lậu của bính lính Ngụy nên những thứ cần thiết cho QGP đều được cung cấp tương đối đầy đủ (thậm chí QGP có thể mua được máy in Ti-pô cỡ lớn, máy phát điện, máy chiếu phim, mua được cả mìn claymore và cả đạn dược, súng ống) do binh lính ngụy đưa thẳng vào vùng của  Quân Giải Phóng kiểm soát rồi lấy tiền về.

Lính Ngụy mỗi khi bắt được tù binh  chúng thường cắt đầu, moi gan nạn nhân để làm trò mua vui cho chúng (Ảnh của Stanley)

* Sức chiến đấu của quân đội Ngụy-VNCH ra sao:
 

Quân đội Sài Gòn còn nổi tiếng là một tổ chức quân sự phản trắc,  chỉ trong vòng 3 năm (1960-1963) chúng đã tổ chức 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm và ngày 1/11/1963 đã lật đổ thành công chế độ gia đình trị tay sai Mỹ này, sau đó nhiều cuộc đảo chính, bắn giết nhau trong giới chóp bu Sài Gòn xảy ra như cơm bữa !

Trước ngày 8/3/1965 - ngày quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng chính thức cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng bộ binh để cứu chế độ Sài Gòn khỏi sụp đổ thì sức chiến đấu của quân Ngụy –VNCH đã rệu rã. Lúc bấy giờ các đồn bót, căn cứ của quân Ngụy đều bị QGP bao vây và khống chế, khi muốn ra ngoài hoặc thực hiện công việc gì đều phải xin phép Quân Giải Phóng hoặc du kích, chúng không còn dám chiến đấu và hàng chục ngàn tên đã bỏ ngũ trở về với nhân dân cầm súng chống lại sự xâm lăng của Mỹ. Sau trận Ấp Bắc, rồi Ba Gia, Dương Liễu, Đèo Nhông, Bình Giã...  quân ngụy bắt đầu rã đám và sụp đổ. Ở Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ và Duyên hải miền Trung binh lính tự đốt phá đồn bót, bàn giao vũ khí cho QGP và trở về làng làm ăn lương thiện. Sau năm 1965 khi quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, Quân Ngụy chỉ còn là những lính núp, trốn ở phía sau, thỉnh thoảng được Mỹ bố trí dẫn đường đi càn quét, đốt phá ở những vùng ven đô, hoặc lập những đồn bót nhỏ, tăng cường đàn áp, cướp bóc nhân dân chung quanh các Chi khu quân sự, thường xuyên tràn ngập vào các đường phố, trường học để bắt  lính làm bia đỡ đạn cho Mỹ. 

Thua đau ở miền Nam, Nixon  và Ngụy Quân cho máy bay cắn trộm miền Bắc

Công bằng mà nói Quân đội Ngụy-VNCH rất khá về chiến thuật phục kích, như người ta biết, khi anh không có khả năng vận động tiến công kẻ thù thì anh đành phải  sống còn bằng chiến thuật mật phục kẻ thù vậy ! Quân Ngụy thường lén lút nằm hàng ngày ở các ngã đường mà du kích hay QGP thường hành quân. Có lúc gặp một vài chiến sĩ GPQ đi qua chúng liền  cho nổ các loại mìn định hướng có độ sát thương cao, nếu có chiến sĩ nào hy sinh chúng liền cắt đầu, mổ bụng phơi nắng các thi thể đó hàng tuần cho dù thân nhân các nạn nhân đó có đến khóc lóc cầu xin chúng để được đưa về chôn cất đều bị chúng từ chối, thậm chí còn bắt giam và tống vào ngục những thân nhân đó.

Trong học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh - Thay màu da cho xác chết"  của Tổng thống Mỹ Nixon, lần đầu tiên quân Ngụy bị Mỹ đẩy ra thử lửa với QGP ở mặt trận Đường 9-Nam Lào với cái tên Chiến dịch Lam Sơn 719 (tháng 2/1971), quân Ngụy bị đánh cho tơi bời ngay từ khi mới đặt chân xuống đất ở Lao Bảo, Bản Đông, Sê-Pôn,Cha-Ky, Mường Phìn… QGP đã chia cắt chúng ra từng mảnh,
tiêu diệt hàng ngàn tên, bắt sống mấy ngàn tên khác có cả sĩ quan cao cấp Ngụy. Chúng hãi hùng tháo chạy lớp bị giết, lớp bị bắt hết 3/4 quân số. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược lịch snày của QGP đã phát ra  một thông điệp tới Thế giới  rằng, nếu Quân xâm lược Mỹ rút về nước, thì Sài Gòn ngay lập tức sẽ được Giải Phóng...một nhận định thật biện chứng và logic, điều đó sau này đã trở thành sự thực.

2/ Sức mạnh của Quân Giải Phóng: 
Nhiều kẻ “hùng biện” ở phía thua trận cho rằng miền Bắc đã phá hoại hiệp định Genève và đưa quân đội  “xâm lược” miền Nam. Những lý luận càn rỡ kiểu này được bọn tàn quân, bọn xét lại, bọn chiêu hồi tung hô và nói leo, tán thưởng.
Thử định nghĩa từ xâm lược như sau, theo Tự điển nổi tiếng Cambridge English Dictionary định nghĩa từ "xâm lược" là :
An occasion when an Army or country uses force to enter and take control of another country
Xâm lược có nghĩa  là khi một quân đội, hay một nước sử dụng sức mạnh để tiến vào chiếm một nước khác” 
Thế là rõ miền Bắc  không phải là một nước khác như định nghĩa mà nó là thuộc nước Việt Nam từ bao đời, từ thuở Hùng Vương dựng nước. Nó chỉ tạm thời bị chia cắt bởi Thực dân Pháp qua hiệp định Genève (20/7/1954) và sau đó bị Mỹ-Diệm xé bỏ (2) không chịu thực thi tiến hành Tổng tuyển cử để thống nhất Tổ Quốc Việt Nam mà với âm mưu lâu dài chúng định "kéo dài biên giới nước Mỹ tới tận vĩ tuyến 17" - Như lời tuyên bố của Ngô Đình Diệm trong diễn văn đáp từ Phó Tổng thống Lyndon Johnson  năm 1961(3)

Chỉ có một số rất ít người, vì ngây ngô, mơ mộng, hay quá hài hước hoặc là thù địch với Dân tộc ta mới cho là "Bắc Việt là nước ngoài" !

"Dân chủ quân sự" một chính sách trong lực lượng GPQ - Trước một trận đánh đều lấy ý kiến của từng Chiến sĩ và mỗi người tự giác nhận lấy vị trí chiến đấu của mình và phối hợp với các mũi tiến công khác của đơn vị


Cần hiểu biết cặn kẽ về lịch sử Việt Nam rằng trước ngày 1/9/1858 khi tên Phó đô đốc Hải Quân Pháp  Rigault de Genouilly tấn công xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng, thì Nước Việt Nam của chúng ta Non sông liền một dải từ Nam Quan đến mũi Cà Mau. Sau này khi các Vua chúa Nhà Nguyễn đã đầu hàng, thì Thực dân Pháp ngang nhiên chia cắt Tổ Quốc Việt nam thành 3 kỳ để dễ bề cai trị và cướp bóc thông qua những tên tay sai cõng rắn cắn gà  theo kiểu Ngô Đình Khả, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Trần Văn Hữu... và bọn hèn nhát tham bơ thừa sữa cặn khác, bọn này lại ca ngợi âm mưu chia cắt của thực dân là khôn ngoan !... 

Cách Mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh  trong Tuyên Ngôn Độc Lập  và thư gửi đồng bào Nam bộ Người đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một, Dân Tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn; song Chân lý đó không bao giờ thay đổi...” 
Lời tuyên bố đanh thép đầy khát vọng độc lập và thống nhất đó đã làm thổn thức hàng chục triệu con tim Việt yêu nước và cũng từ đó hàng triệu người đã lên đường hy sinh tất cả cho Thống Nhất Non Sông:


”Gươm nào chém được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãi Trường Sơn
...?"

Trên toàn miền Nam nơi nào bọn Xâm lược cũng bị  QGP đánh cho gãy cổ !

Khát vọng Độc lập và Thống nhất Tổ Quốc là sức mạnh không gì lay chuyển nổi đã lan truyền  sang các chiến sĩ Quân đội Nhân dân -  Quân Giải Phóng tạo cho họ có lòng dũng cảm vô biên, họ sẵn sàng hy sinh cho Tổ Quốc mà không hề tính toán. Đối lập với sự tham lam, tàn ác của quân thù, họ là những người lính không có lương, hàng tháng chỉ nhận được một món tiền trợ cấp ít  ỏi để đủ mua 1 tuýp thuốc đánh răng và cái khăn mặt, một lưỡi dao cạo râu; cứ mỗi năm
họ bị đói quây, đói quắt ròng rã hàng mấy tháng trời vì mùa mưa của Trường Sơn. Nhưng được lệnh đi chiến đấu thì họ bật dậy hiên ngang xông thẳng vào mặt quân thù đòi chúng trả nợ máu cho cha mẹ, cho anh chị  và bạn bè cho Nhân Dân vô tội của mình...


Những năm tháng chôn mình trên Trường Sơn  rừng thiêng, nước độc hay nơi hoang vu đầy mũi vắt của Bưng Biền Miền Tây để luyện quân chờ lệnh, rồi băng rừng Tiến Về Sài Gòn tiêu diệt Ngụy Quyền, dù đói khát, bệnh tật, muôn vàn ác liệt, hy sinh, gian khổ đến bao nhiêu họ vẫn giữ vững kỷ luật thép của Quân Đội Nhân Dân một lòng, một dạ trung thành với Cách Mạng. Họ có niềm tin tuyệt đối vào chiến thắng bởi vì họ biết mình đang chiến đấu cho chính nghĩa, sẵn sàng bỏ mình vì chính nghĩa.


QGP  đã chiến thắng vì đã chiến đấu cho Ý Thức hệ:
Họ có sức mạnh  vĩ đại của cuộc chiến đấu vì "Ý thức hệ" . Họ Nhận thức rằng chiến đấu cho Ý thức hệ là vinh quang và hạnh phúc, Ý thức hệ đó do chủ tịch Hồ Chí Minh truyền cảm hứng cho họ, cái cảm hứng mà từng làm cho Người reo lên trong căn phòng nhỏ, cô đơn và lặng lẽ ở  ngôi nhà số 9, Ngõ Compoint, Paris 1919 (4) đó là Luận Cương của V.I Lenin trong Quốc Tế 3, nội dung tóm tắt là "Các nước Thuộc địa muốn t Giải phóng mình nhất thiết phải đi theo con đường CNXH".  Sao lại không dám nói rằng chúng ta đã chiến đấu vì Ý Thức Hệ, nó vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh vừa là Mục tiêu để chúng ta giành lại quê hương tan nát từ tay kẻ thù, Ý Thức Hệ của chúng ta thực tế đã mang lại cho chúng ta MÙA XUÂN DÂN TỘC mà nó đã bị Thực Dân - Đế Quốc  cướp mt hơn 117 năm rồi:
 

Sài Gòn-Tp. Hồ Chí Minh ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ mong đợi



Xưa là Rừng Núi, là Đêm

Giờ thêm Sông Biển lại thêm Ban Ngày !

…Thế mà đã 40 năm rồi kể từ khi ta giành lại Non Sông từ tay kẻ thù độc ác, nói là 40 năm nhưng ta đã phải chiến đấu chống kẻ thù mới hàng chục năm trời...Ngay trong đêm ta bắn pháo hoa ăn mừng một năm Ngày Giải Phóng thì kẻ thù ở biên giới Tây Nam đã tràn vào làng xóm của chúng ta bắn giết và đốt phá, bọn ác bá diệt chủng
lại đốt lên ngọn lửa thù hận mới. Washington, Chư hầu Bangkok, Bọn Bành trướng Bắc Kinh lại đứng về phía Polpot, chúng lớn tiếng vu cáo Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia và lái cả thế giới mù mờ để ủng hộ chúng. Bọn Mỹ lại thù hằn cấm vận ta hàng chục năm trời đến nỗi trẻ em của chúng ta không có sữa, cha mẹ chúng ta khi ốm đau không có thuốc, thậm chí chúng cấm vận cả  phân bón và thuốc trừ sâu để chúng ta không thể canh tác, không làm ra nổi lúa gạo mà ăn, chúng muốn chúng ta chết ! Nhưng không, chúng ta đã gồng mình lên chịu đói vừa đánh giặc, vừa từng bước Đổi Mới nền kinh tế và cuối cùng chúng ta đã có được như hôm nay, chúng ta đã có nhiều bạn bè thân thiện cùng chúng ta chia sngọt bùi, chiến thắng khó khăn đ Xây dựng Tổ Quốc ta từng bước làm cho Dân Giàu, Nước Mạnh, Dân chủ, Công Bằng, Văn minh...đó chẳng phải là niềm tự hào lớn lao trong những ngày kỷ niSài Gòn Giải Phóng lần thứ 40 này hay sao ?


Chế Trung Hiếu

-------------------------------------------------------------------
(1) Chi khu quân sự (CKQS): Là trung tâm đầu não của bộ máy hành chính, quân sự của ngụy quyền Sài Gòn thực hiện việc quản lý, điều hành một chính quyền cấp quận (huyện) trong thời chiến bao gồm . Ðặc biệt là kiểm soát và chống phá mọi hoạt động của lực lượng cách mạng ở một vùng vốn được coi là vùng Cộng sản. Tại khu vực này, địch bố phòng rất chặt chẽ. Các công trình phục vụ cho mục đích hành chính, quân sự của bộ máy ngụy quân, ngụy quyền được xây dựng kiên cố với hệ thống nhiều lớp hàng rào kẽm gai, có hệ thống bom mìn tự động, công sự, lô cốt dày đặc để án ngữ  các đầu mối giao thông quan trọng. Nhiều CKQS được Mỹ-ngụy xây dựng thành hệ thống cứ điểm hỗ trợ liên hoàn cho nhau, thường lấy các điểm cao độc lập có thế quan sát và khống chế phi pháo cả một vùng rộng lớn.
Lực lượng ở CKQS thường tập trung toàn bộ bọn ác ôn khét tiếng của khu vực cùng với gia đình của chúng dưới sự chỉ huy của một tên Quận trưởng thường là cấp Trung Tá chuyên thực hiện nhiệm vụ đánh phá phong trào cách mạng ở những địa phương mà chúng gọi là mất an ninh; đồng thời mở các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm ra vùng giải phóng.


(2)Từ chối tổng tuyển cử: Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève với lý do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc.và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn để tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đình Diệm bẽ mặt ở phương Tây. Theo Mortimer T. Cohen thì Ngô Đình Diệm không chấp nhận tổng tuyển cử, vì ông biết rằng mình sẽ thua. Không ai có thể thắng cử trước Hồ Chí Minh, vì ông là một George Washington của Việt Nam.Báo cáo của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử. Do vậy Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam vì vậy đã không bao giờ được tổ chức. Theo nhận xét của Tây phương thì Ngô Đình Diệm là kẻ ngoan cố và khao khát quyền lực chuyên chế, nhưng theo Duncanson thì sự thật phức tạp hơn thế. Miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam 2 triệu người (tính cả gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam). Hơn nữa, vào thời điểm 1955 – 1956, trước sự hỗn loạn bởi các giáo phái và do hoạt động bí mật của Việt Minh tại miền Nam, cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam tạo ra bầu không khí căng thẳng dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân tại các vùng lân cận Vinh, theo Duncanson thì những tình hình diễn ra ở cả hai miền khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương không có hy vọng đảm bảo một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị.Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm của Ducanson, theo các báo cáo của Ủy ban giám sát quốc tế thì trong giai đoạn 1954-1956, họ chỉ nhận được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam Năm 1956, Allen Dulles đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì "thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi". Trong tình thế này, Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.(Xin tham khảo tại: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m) 

(3)https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m

(4) Tất cả những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đã từng trăn trở, tìm kiếm bao lâu nay đã được giải đáp. Sau này, nhớ lại thời điểm lịch sử ấy, Người đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lenin, tin theo Quốc tế thứ ba”.(Hồ Chí Minh toàn tập, T10,Tr127)

 

 


 Khi được đọc “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng của Người, đồng thời là bước ngoặt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. - See more at: http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=5&sitepageid=423#sthash.saxelo6Q.dpuf
 Khi được đọc “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng của Người, đồng thời là bước ngoặt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. - See more at: http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=5&sitepageid=423#sthash.saxelo6Q.dpuf