Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

CHÚNG TÔI ĐÃ CHIẾN ĐẤU CHO Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN NHƯ THẾ NÀO ?



Vào ngày này, 30/4/1975 lúc 11 giờ 30 phút lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam  ngạo nghễ tung bay trên nóc Dinh Độc Lập hang ổ cuối cùng của chính quyền Ngụy-Sài Gòn, giờ phút thiêng liêng, cảm động nhất của Dân Tộc đánh dấu thắng lợi cuối cùng của quân và dân Việt Nam đã hy sinh chiến đấu ròng rã 117 năm kể từ ngày 1/9/1858 khi mà tên thực dân Pháp đầu tiên bắt đầu đổ bộ lên Đà Nẵng tiến hành xâm lược  và cai trị nước ta cho đến khi tên lính  tay sai ngoại bang Ngụy- Sài Gòn buông súng đầu hàng.



Xe tăng QGP tràn ngập vào Dinh Độc Lập bắt Chính phủ Ngụy đầu hàng lúc 11:30 ngày 30.4.1975
Trong bài hát Giải phóng miền Nam của Nhạc sĩ Huỳnh Minh Siêng có đoạn:”Vận nước đã đến rồi, bình minh chiếu khắp nơi, dựng xây non nước sáng tươi muôn đời…”. Đúng là vận nước đã đến rồi… nên chúng ta mới có chiến thắng to lớn và huy hoàng đến thế. Ai đã ở chiến trường miền Nam trong khoảng thời gian từ 1965-1975 sẽ thấy  cái gọi “Quân lực VNCH” và “Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh”  có sức mạnh đến dường nào! Với một triệu quân Ngụy, 80 vạn lính Mỹ và chư hầu được trang bị cực kỳ hiện đại có sức cơ động mau lẹ bằng máy bay trực thăng và cơ giới, quân Mỹ-Ngụy rải ra chiếm đóng hầu hết các vùng trọng yếu chiến lược của chiến trường. Mỹ-Ngụy đã xây dựng một hệ thống đồn bót dày đặc khắp nơi ở miền Nam án ngữ và cắt đứt các con đường tiếp tế từ nông thôn miền Nam cho quân đội Giải phóng, hỏa lực pháo binh của căn cứ này có thế tác xạ ngay lên căn cứ kia nếu bị QGP tràn ngập sau khi quân Mỹ-Ngụy đóng ở đó kịp rút xuống hệ thống hầm ngầm. Chúng ta thử xem sơ đồ bố trí quân lính và công sự của  một Chi khu quân sự  thì ta thấy nó không khác gì chiến thuật bố trí phòng ngự của căn cứ Điện Biên Phủ (1954) , nhiều Chi khu Quân sự của Mỹ-Ngụy còn được xây dựng vững chắc và liên hoàn hơn tập đoàn căn cứ Điện Biên Phủ của quân Pháp đó là các chi khu quân sự Thượng Đức (Quảng Nam), Hướng Hóa (Quảng Trị), Mai Lĩnh (Quảng Trị), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Dakto (Kon tum), Buôn Hồ (Dak Lak), Plei Cần (Kon Tum)…trên khắp miền Nam Mỹ - Ngụy đã xây dựng hơn 200 chi khu quân sự vững chắc  như thế.

Đó là chưa kể đến hàng trăm căn cứ quân sự Mỹ lớn có tầm cỡ các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Châu Âu như: Khe Sanh, Làng Vây, Dốc Miếu, Chu Lai, Đà Nẵng, Gò Hội, Phù Cát, Dak –To, Plei-me, Bàu Bàng, Biên Hòa, Xuân Lộc, Đức Hòa, Đồng Xoài, Biên Hòa, Trà Nóc
Với so sánh lực lượng quân sự như vậy mà sau 8 năm (1965-1973) trực tiếp xâm lược bằng bộ binh Đế Quốc Mỹ phải rút quân mang về Mỹ 58 ngàn chiếc quan tài bằng kẽm chứa xác lính Mỹ chết trận
và hàng trăm ngàn tên Mỹ khác bị loại khỏi vòng chiến đấu, bàn giao lại tất cả vũ khí, hạ tầng quân sự cho Ngụy Quân, giữ lại các cố vấn quân sự cùng với viện trợ hàng tỷ đô-la mỗi năm. Nhưng chỉ với một trận 11/3/1975 Quân Giải phòng “Chặt Buôn Ma Thuột đứt cả Tây Nguyên”. Quân Ngụy ùn ùn tháo chạy như một bầy lừa ngựa không có người cai quản trên thảo nguyên xinh đẹp miền Trung Việt Nam. Câu hỏi đặt ra cho tất cả chúng ta là  Nguyên nhân nào đã làm cho chúng lại thất bại ô nhục như vậy ? Và chúng ta cần phải phân tích một cách biện chứng để tìm thấy sức mạnh thật sự của mỗi bên là những nhân tố nào ?

1/Quân đội VNCH  thực sự có mạnh không ?
 * Quân đội Ngụy-VNCH sinh ra từ đâu bản chất nó như thế nào:
Tổ chức Quân đội cũng giống như một cơ thể của một con người, những nhân tố sinh ra nó nếu khỏe mạnh, hay ốm yếu đều quyết định đến "Sức khỏe và Vận mệnh" của nó !


Chúng ta biết rằng sau khi tiến hành phế truất Bảo Đại  thông qua một cuộc Trưng cầu ý dân đại bịp bợm và đại gian trá vào ngày 23/10/1955 Ngô Đình Diệm ngay lập tức cho thành lập Quân đội VNCH nhưng thực chất chỉ là đổi tên cái gọi là Quân đội Quốc gia, là quân đội tay sai do thực dân Pháp xây dựng và nuôi dưỡng, 100% tướng lĩnh và sĩ quan của tổ chức quân sự này đều do thực dân Pháp đào tạo và cất nhắc; quyết định thành lập "Quân đội Quốc Gia" cũng được Quốc hội Pháp ra quyết định. Trước đó Quân đội Quốc gia là các lực lượng Khố Xanh, Khố Đỏ và các Sư đoàn Tự vệ Công giáo ở Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình...Chúng
đã thi hành chính sách tàn sát, khủng bố dã man người Việt Nam nào dám đứng lên chống lại sự cai trị của Thực dân Pháp một cách dã man theo lệnh của thực dân Pháp, mặc dù được Pháp nuôi dưỡng, đào tạo và trang bị  nhưng nó đã bị đánh bại khắp nơi từ đồng bằng Bắc bộ đến  miền Trung và Cao nguyên trung phần. Sau năm 1956-1958 Diệm tiêu diệt xong các nhóm phiến loạn miền Tây, thì Diệm lại sát nhập tàn quân của các sư đoàn thuộc lực lượng Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài vào lực lượng VNCH, cho nên có thể nói Quân Ngụy là đội quân ô hợp, bởi các lực lượng tôn giáo nói trên đều là loại anh chị, bụi đời, đá cá lăn dưa, du thủ, du thực, lưu manh và trộm cướp. Mặc dù được đổi tên nhưng Bản Chất đội quân này vẫn không hề thay đổi, tâm lý là lính đánh thuê, làm bia đỡ đạn cho ngoại bang, cầm súng Mỹ bắn giết người cùng nòi giống đã làm cho đội quân này không có ý chí chiến đấu vì chính nghĩa và luôn luôn thực hiện mệnh lệnh của quân Mỹ để tiến hành các cuộc càn quét vào làng mạc miền Nam để khu trục lực lượng Quân giải phóng, dìm phong trào chống xâm lược của nhân dân miền Nam vào biển máu, chúng bắn giết bừa bãi, tiến hành nhiều vụ thảm sát dân lành mà cả thế giới văn minh đều biết, đều ghi chép đến những tội ác trời không dung, đất không tha này.
QGP Thực hiện tước vũ khí của Quân Ngụy đang bảo vệ Dinh Tổng Thống trưa 30/4/1975

Đến khi Diệm -Nhu bị giết số quân của Mỹ tại miền Nam đã lến đến 23.000 tên (Theo hồi ký của Trung Tướng Ngụy-Đỗ Mậu- Con số thật còn bị giấu diếm). Khi  hành quân càn quét đều được Cố vấn Quân sự Mỹ chỉ huy đến tận tiểu đoàn, vì hèn nhát nên chúng luôn dùng bom đạn  hạng nặng dọn đường, thả bom bắn phá bừa bãi vào làng mạc, nông thôn miền Nam, đi đến đâu chúng đều xả súng tàn sát người vô tội, rồi đốt nhà, cướp của, hiếp dâm phụ nữ làm cho người dân sợ hãi phải chạy vào các khu dồn dân của chúng xây dựng sẵn nhằm chia cắt Nhân dân với Cách mạng. Những vụ thảm sát dã man do quân Ngụy gây ra  ở Vĩnh Trinh (Duy Xuyên), Chợ Được (Thăng Bình), Bình Hòa, Bình Thủy (Bình Sơn), Hà Tây, Diên Niên, Thọ Lộc, Sơn M (Sơn Tịnh), Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Lâm Hạ (Mộ Đức), Giồng Trôm, Thạnh Phong (Bến Tre), Nhơn Phước (Bình Định), Phú Lợi (Bình Dương), Hòn Đất (Kiên Giang)...đã phơi bày bộ mặt thật gian ác, khát máu của chúng; hành vi tội ác đó không những không làm cho đồng bào ta ở miền Nam sợ hãi mà ngược lại nó làm tăng lên lòng căm thù Mỹ-Ngụy đến ngút trời; Chế độ Diệm cùng quân đội đê hèn của nó  đến tận bây giờ vẫn bị loài người tiến bộ trên thế giới nguyền rủa  và lên án.


Lính Ngụy tra tấn một Nông dân khi chúng nghi là Việt Cộng

* Đoàn kết quân-dân của Quân Nguy - VNCH như thế nào:
Có thể nói 95% bính lính Nguy-VNCH cùng đều sinh ra lớn lên tại miền Nam, họ đều xuất thân trong những gia đình nông dân nghèo khổ ở vùng Duyên hải miền Trung, hay  Cao nguyên Trung phần, hoặc từ vùng quê Nam Bộ, họ đều được hưởng bản tính  hiền lành, trung thực và cần cù lao động của người dân nơi họ sinh ra. Bỗng chốc họ bị lừa dối và bị đẩy vào biên chế các đơn vị quân Ngụy-VNCH họ đều bị nhồi sọ và học tập bản lĩnh tàn ác và tham lam của quân Xâm lược Pháp và Mỹ trong các thao trường hay Trung tâm huấn luyện võ bị, mới đó anh ta chỉ một nông dân hiền lành mấy hôm sau gặp lại hắn đã trở thành tên lính ngụy ngông nghênh với bộ quân phục rằn ri và chiếc mũ nồi đội lệch, nện gót hống hách trong đôi giày đinh kiểu lính Mỹ,
coi trời bằng vung, hung hăng như một tên côn đồ có vũ trang thực thụ !


Nội bộ của Quân đội Ngụy Sài Gòn luôn luôn mâu thuẫn nhau, binh chủng này mâu thuẫn với binh chủng kia, Lính Dù và Thủy Quân Lục Chiến thường hống hách tự cho mình là con cưng của Diệm-Thiu, trong khi Biệt Động Quân cho mình là thiện chiến, gan dạ nhiều khi chúng chống lệnh chi viện cho nhau trên mặt trận hoặc đem quân dàn trận đánh lẫn nhau như kẻ thù...Sau những đợt càn quét trên chiến trường về thành phố, binh lính ngụy của các binh chủng thường tỏ ra bất cần và hách dịch,
chúng lộng hành, lưu manh, cà chớn, ăn quỵt, gây gỗ, cướp bóc, quậy phá, chơi gái... làm cho nhân dân ở các đô thị miền Nam vô cùng khinh b và căm ghét.


Quan hệ giữa sĩ quan và lính tráng là quan hệ chủ tớ luôn luôn thù hằn và chia rẽ. Chỉ huy có thể bắn chết binh sĩ mà không bị ra tòa,
Sĩ quan Ngụy thường lợi dụng chính sách lương bỗng cao của vợ và con nên thường hối lộ cấp trên để khai vống đông con, thậm chí có tên khai tới 15, 16 đứa con để lãnh lương; lính theo đạo Công giáo được coi trọng hơn lính theo các Tôn giáo khác và được ưu đãi cất nhắc lên các địa  vị cao hơn nhưng lại ít bị đưa ra mặt trận điều này cũng gây ra sự mâu thuẫn rất lớn trong nội bộ binh lính Ngụy.

Lính Ngụy luôn dẫn đường cho Quân Mỹ thực hiện các vụ thảm sát - Hiện trường vụ thảm sát Sơn Mỹ  ngày 16/3/1968 do tên Calley chỉ huy có sự cộng tác, dẫn đường và phối hợp của binh lính Ngụy thuốc Trung đoàn 2 Sư đoàn 2 Ngụy Sài gòn

Binh lính ngụy từ Sĩ quan đến lính tráng còn là một tổ chức buôn lậu rất lớn. Nguyễn Cao Kỳ cùng vợ và cận vệ thường đi buôn lậu ma-túy, thậm chí dùng cả máy bay quân s đi Tam Giác Vàng (Biên giới giữa Lào, Thái Lan và Myanmar) để thực hiện những thương vụ ma-túy lớn rồi đem về bán cho binh lính Mỹ-Ngụy hay chợ đen làm giàu nhanh chóng (xem hồi ký của Trung tướng Ngụy-Đỗ Mậu). Những năm Mỹ đánh phá các tuyến đường chi viện cho Cách mạng miền Nam, QGP gặp rất nhiều khó khăn về lương thực, thuốc men và trang bị nhưng nhờ có sự buôn lậu của bính lính Ngụy nên những thứ cần thiết cho QGP đều được cung cấp tương đối đầy đủ (thậm chí QGP có thể mua được máy in Ti-pô cỡ lớn, máy phát điện, máy chiếu phim, mua được cả mìn claymore và cả đạn dược, súng ống) do binh lính ngụy đưa thẳng vào vùng của  Quân Giải Phóng kiểm soát rồi lấy tiền về.

Lính Ngụy mỗi khi bắt được tù binh  chúng thường cắt đầu, moi gan nạn nhân để làm trò mua vui cho chúng (Ảnh của Stanley)

* Sức chiến đấu của quân đội Ngụy-VNCH ra sao:
 

Quân đội Sài Gòn còn nổi tiếng là một tổ chức quân sự phản trắc,  chỉ trong vòng 3 năm (1960-1963) chúng đã tổ chức 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm và ngày 1/11/1963 đã lật đổ thành công chế độ gia đình trị tay sai Mỹ này, sau đó nhiều cuộc đảo chính, bắn giết nhau trong giới chóp bu Sài Gòn xảy ra như cơm bữa !

Trước ngày 8/3/1965 - ngày quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng chính thức cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng bộ binh để cứu chế độ Sài Gòn khỏi sụp đổ thì sức chiến đấu của quân Ngụy –VNCH đã rệu rã. Lúc bấy giờ các đồn bót, căn cứ của quân Ngụy đều bị QGP bao vây và khống chế, khi muốn ra ngoài hoặc thực hiện công việc gì đều phải xin phép Quân Giải Phóng hoặc du kích, chúng không còn dám chiến đấu và hàng chục ngàn tên đã bỏ ngũ trở về với nhân dân cầm súng chống lại sự xâm lăng của Mỹ. Sau trận Ấp Bắc, rồi Ba Gia, Dương Liễu, Đèo Nhông, Bình Giã...  quân ngụy bắt đầu rã đám và sụp đổ. Ở Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ và Duyên hải miền Trung binh lính tự đốt phá đồn bót, bàn giao vũ khí cho QGP và trở về làng làm ăn lương thiện. Sau năm 1965 khi quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, Quân Ngụy chỉ còn là những lính núp, trốn ở phía sau, thỉnh thoảng được Mỹ bố trí dẫn đường đi càn quét, đốt phá ở những vùng ven đô, hoặc lập những đồn bót nhỏ, tăng cường đàn áp, cướp bóc nhân dân chung quanh các Chi khu quân sự, thường xuyên tràn ngập vào các đường phố, trường học để bắt  lính làm bia đỡ đạn cho Mỹ. 

Thua đau ở miền Nam, Nixon  và Ngụy Quân cho máy bay cắn trộm miền Bắc

Công bằng mà nói Quân đội Ngụy-VNCH rất khá về chiến thuật phục kích, như người ta biết, khi anh không có khả năng vận động tiến công kẻ thù thì anh đành phải  sống còn bằng chiến thuật mật phục kẻ thù vậy ! Quân Ngụy thường lén lút nằm hàng ngày ở các ngã đường mà du kích hay QGP thường hành quân. Có lúc gặp một vài chiến sĩ GPQ đi qua chúng liền  cho nổ các loại mìn định hướng có độ sát thương cao, nếu có chiến sĩ nào hy sinh chúng liền cắt đầu, mổ bụng phơi nắng các thi thể đó hàng tuần cho dù thân nhân các nạn nhân đó có đến khóc lóc cầu xin chúng để được đưa về chôn cất đều bị chúng từ chối, thậm chí còn bắt giam và tống vào ngục những thân nhân đó.

Trong học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh - Thay màu da cho xác chết"  của Tổng thống Mỹ Nixon, lần đầu tiên quân Ngụy bị Mỹ đẩy ra thử lửa với QGP ở mặt trận Đường 9-Nam Lào với cái tên Chiến dịch Lam Sơn 719 (tháng 2/1971), quân Ngụy bị đánh cho tơi bời ngay từ khi mới đặt chân xuống đất ở Lao Bảo, Bản Đông, Sê-Pôn,Cha-Ky, Mường Phìn… QGP đã chia cắt chúng ra từng mảnh,
tiêu diệt hàng ngàn tên, bắt sống mấy ngàn tên khác có cả sĩ quan cao cấp Ngụy. Chúng hãi hùng tháo chạy lớp bị giết, lớp bị bắt hết 3/4 quân số. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược lịch snày của QGP đã phát ra  một thông điệp tới Thế giới  rằng, nếu Quân xâm lược Mỹ rút về nước, thì Sài Gòn ngay lập tức sẽ được Giải Phóng...một nhận định thật biện chứng và logic, điều đó sau này đã trở thành sự thực.

2/ Sức mạnh của Quân Giải Phóng: 
Nhiều kẻ “hùng biện” ở phía thua trận cho rằng miền Bắc đã phá hoại hiệp định Genève và đưa quân đội  “xâm lược” miền Nam. Những lý luận càn rỡ kiểu này được bọn tàn quân, bọn xét lại, bọn chiêu hồi tung hô và nói leo, tán thưởng.
Thử định nghĩa từ xâm lược như sau, theo Tự điển nổi tiếng Cambridge English Dictionary định nghĩa từ "xâm lược" là :
An occasion when an Army or country uses force to enter and take control of another country
Xâm lược có nghĩa  là khi một quân đội, hay một nước sử dụng sức mạnh để tiến vào chiếm một nước khác” 
Thế là rõ miền Bắc  không phải là một nước khác như định nghĩa mà nó là thuộc nước Việt Nam từ bao đời, từ thuở Hùng Vương dựng nước. Nó chỉ tạm thời bị chia cắt bởi Thực dân Pháp qua hiệp định Genève (20/7/1954) và sau đó bị Mỹ-Diệm xé bỏ (2) không chịu thực thi tiến hành Tổng tuyển cử để thống nhất Tổ Quốc Việt Nam mà với âm mưu lâu dài chúng định "kéo dài biên giới nước Mỹ tới tận vĩ tuyến 17" - Như lời tuyên bố của Ngô Đình Diệm trong diễn văn đáp từ Phó Tổng thống Lyndon Johnson  năm 1961(3)

Chỉ có một số rất ít người, vì ngây ngô, mơ mộng, hay quá hài hước hoặc là thù địch với Dân tộc ta mới cho là "Bắc Việt là nước ngoài" !

"Dân chủ quân sự" một chính sách trong lực lượng GPQ - Trước một trận đánh đều lấy ý kiến của từng Chiến sĩ và mỗi người tự giác nhận lấy vị trí chiến đấu của mình và phối hợp với các mũi tiến công khác của đơn vị


Cần hiểu biết cặn kẽ về lịch sử Việt Nam rằng trước ngày 1/9/1858 khi tên Phó đô đốc Hải Quân Pháp  Rigault de Genouilly tấn công xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng, thì Nước Việt Nam của chúng ta Non sông liền một dải từ Nam Quan đến mũi Cà Mau. Sau này khi các Vua chúa Nhà Nguyễn đã đầu hàng, thì Thực dân Pháp ngang nhiên chia cắt Tổ Quốc Việt nam thành 3 kỳ để dễ bề cai trị và cướp bóc thông qua những tên tay sai cõng rắn cắn gà  theo kiểu Ngô Đình Khả, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Trần Văn Hữu... và bọn hèn nhát tham bơ thừa sữa cặn khác, bọn này lại ca ngợi âm mưu chia cắt của thực dân là khôn ngoan !... 

Cách Mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh  trong Tuyên Ngôn Độc Lập  và thư gửi đồng bào Nam bộ Người đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một, Dân Tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn; song Chân lý đó không bao giờ thay đổi...” 
Lời tuyên bố đanh thép đầy khát vọng độc lập và thống nhất đó đã làm thổn thức hàng chục triệu con tim Việt yêu nước và cũng từ đó hàng triệu người đã lên đường hy sinh tất cả cho Thống Nhất Non Sông:


”Gươm nào chém được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãi Trường Sơn
...?"

Trên toàn miền Nam nơi nào bọn Xâm lược cũng bị  QGP đánh cho gãy cổ !

Khát vọng Độc lập và Thống nhất Tổ Quốc là sức mạnh không gì lay chuyển nổi đã lan truyền  sang các chiến sĩ Quân đội Nhân dân -  Quân Giải Phóng tạo cho họ có lòng dũng cảm vô biên, họ sẵn sàng hy sinh cho Tổ Quốc mà không hề tính toán. Đối lập với sự tham lam, tàn ác của quân thù, họ là những người lính không có lương, hàng tháng chỉ nhận được một món tiền trợ cấp ít  ỏi để đủ mua 1 tuýp thuốc đánh răng và cái khăn mặt, một lưỡi dao cạo râu; cứ mỗi năm
họ bị đói quây, đói quắt ròng rã hàng mấy tháng trời vì mùa mưa của Trường Sơn. Nhưng được lệnh đi chiến đấu thì họ bật dậy hiên ngang xông thẳng vào mặt quân thù đòi chúng trả nợ máu cho cha mẹ, cho anh chị  và bạn bè cho Nhân Dân vô tội của mình...


Những năm tháng chôn mình trên Trường Sơn  rừng thiêng, nước độc hay nơi hoang vu đầy mũi vắt của Bưng Biền Miền Tây để luyện quân chờ lệnh, rồi băng rừng Tiến Về Sài Gòn tiêu diệt Ngụy Quyền, dù đói khát, bệnh tật, muôn vàn ác liệt, hy sinh, gian khổ đến bao nhiêu họ vẫn giữ vững kỷ luật thép của Quân Đội Nhân Dân một lòng, một dạ trung thành với Cách Mạng. Họ có niềm tin tuyệt đối vào chiến thắng bởi vì họ biết mình đang chiến đấu cho chính nghĩa, sẵn sàng bỏ mình vì chính nghĩa.


QGP  đã chiến thắng vì đã chiến đấu cho Ý Thức hệ:
Họ có sức mạnh  vĩ đại của cuộc chiến đấu vì "Ý thức hệ" . Họ Nhận thức rằng chiến đấu cho Ý thức hệ là vinh quang và hạnh phúc, Ý thức hệ đó do chủ tịch Hồ Chí Minh truyền cảm hứng cho họ, cái cảm hứng mà từng làm cho Người reo lên trong căn phòng nhỏ, cô đơn và lặng lẽ ở  ngôi nhà số 9, Ngõ Compoint, Paris 1919 (4) đó là Luận Cương của V.I Lenin trong Quốc Tế 3, nội dung tóm tắt là "Các nước Thuộc địa muốn t Giải phóng mình nhất thiết phải đi theo con đường CNXH".  Sao lại không dám nói rằng chúng ta đã chiến đấu vì Ý Thức Hệ, nó vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh vừa là Mục tiêu để chúng ta giành lại quê hương tan nát từ tay kẻ thù, Ý Thức Hệ của chúng ta thực tế đã mang lại cho chúng ta MÙA XUÂN DÂN TỘC mà nó đã bị Thực Dân - Đế Quốc  cướp mt hơn 117 năm rồi:
 

Sài Gòn-Tp. Hồ Chí Minh ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ mong đợi



Xưa là Rừng Núi, là Đêm

Giờ thêm Sông Biển lại thêm Ban Ngày !

…Thế mà đã 40 năm rồi kể từ khi ta giành lại Non Sông từ tay kẻ thù độc ác, nói là 40 năm nhưng ta đã phải chiến đấu chống kẻ thù mới hàng chục năm trời...Ngay trong đêm ta bắn pháo hoa ăn mừng một năm Ngày Giải Phóng thì kẻ thù ở biên giới Tây Nam đã tràn vào làng xóm của chúng ta bắn giết và đốt phá, bọn ác bá diệt chủng
lại đốt lên ngọn lửa thù hận mới. Washington, Chư hầu Bangkok, Bọn Bành trướng Bắc Kinh lại đứng về phía Polpot, chúng lớn tiếng vu cáo Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia và lái cả thế giới mù mờ để ủng hộ chúng. Bọn Mỹ lại thù hằn cấm vận ta hàng chục năm trời đến nỗi trẻ em của chúng ta không có sữa, cha mẹ chúng ta khi ốm đau không có thuốc, thậm chí chúng cấm vận cả  phân bón và thuốc trừ sâu để chúng ta không thể canh tác, không làm ra nổi lúa gạo mà ăn, chúng muốn chúng ta chết ! Nhưng không, chúng ta đã gồng mình lên chịu đói vừa đánh giặc, vừa từng bước Đổi Mới nền kinh tế và cuối cùng chúng ta đã có được như hôm nay, chúng ta đã có nhiều bạn bè thân thiện cùng chúng ta chia sngọt bùi, chiến thắng khó khăn đ Xây dựng Tổ Quốc ta từng bước làm cho Dân Giàu, Nước Mạnh, Dân chủ, Công Bằng, Văn minh...đó chẳng phải là niềm tự hào lớn lao trong những ngày kỷ niSài Gòn Giải Phóng lần thứ 40 này hay sao ?


Chế Trung Hiếu

-------------------------------------------------------------------
(1) Chi khu quân sự (CKQS): Là trung tâm đầu não của bộ máy hành chính, quân sự của ngụy quyền Sài Gòn thực hiện việc quản lý, điều hành một chính quyền cấp quận (huyện) trong thời chiến bao gồm . Ðặc biệt là kiểm soát và chống phá mọi hoạt động của lực lượng cách mạng ở một vùng vốn được coi là vùng Cộng sản. Tại khu vực này, địch bố phòng rất chặt chẽ. Các công trình phục vụ cho mục đích hành chính, quân sự của bộ máy ngụy quân, ngụy quyền được xây dựng kiên cố với hệ thống nhiều lớp hàng rào kẽm gai, có hệ thống bom mìn tự động, công sự, lô cốt dày đặc để án ngữ  các đầu mối giao thông quan trọng. Nhiều CKQS được Mỹ-ngụy xây dựng thành hệ thống cứ điểm hỗ trợ liên hoàn cho nhau, thường lấy các điểm cao độc lập có thế quan sát và khống chế phi pháo cả một vùng rộng lớn.
Lực lượng ở CKQS thường tập trung toàn bộ bọn ác ôn khét tiếng của khu vực cùng với gia đình của chúng dưới sự chỉ huy của một tên Quận trưởng thường là cấp Trung Tá chuyên thực hiện nhiệm vụ đánh phá phong trào cách mạng ở những địa phương mà chúng gọi là mất an ninh; đồng thời mở các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm ra vùng giải phóng.


(2)Từ chối tổng tuyển cử: Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève với lý do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc.và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn để tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đình Diệm bẽ mặt ở phương Tây. Theo Mortimer T. Cohen thì Ngô Đình Diệm không chấp nhận tổng tuyển cử, vì ông biết rằng mình sẽ thua. Không ai có thể thắng cử trước Hồ Chí Minh, vì ông là một George Washington của Việt Nam.Báo cáo của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử. Do vậy Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam vì vậy đã không bao giờ được tổ chức. Theo nhận xét của Tây phương thì Ngô Đình Diệm là kẻ ngoan cố và khao khát quyền lực chuyên chế, nhưng theo Duncanson thì sự thật phức tạp hơn thế. Miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam 2 triệu người (tính cả gần 1 triệu người miền Bắc di cư vào Nam). Hơn nữa, vào thời điểm 1955 – 1956, trước sự hỗn loạn bởi các giáo phái và do hoạt động bí mật của Việt Minh tại miền Nam, cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam tạo ra bầu không khí căng thẳng dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân tại các vùng lân cận Vinh, theo Duncanson thì những tình hình diễn ra ở cả hai miền khiến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương không có hy vọng đảm bảo một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị.Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm của Ducanson, theo các báo cáo của Ủy ban giám sát quốc tế thì trong giai đoạn 1954-1956, họ chỉ nhận được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam Năm 1956, Allen Dulles đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì "thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi". Trong tình thế này, Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.(Xin tham khảo tại: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m) 

(3)https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m

(4) Tất cả những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đã từng trăn trở, tìm kiếm bao lâu nay đã được giải đáp. Sau này, nhớ lại thời điểm lịch sử ấy, Người đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lenin, tin theo Quốc tế thứ ba”.(Hồ Chí Minh toàn tập, T10,Tr127)

 

 


 Khi được đọc “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng của Người, đồng thời là bước ngoặt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. - See more at: http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=5&sitepageid=423#sthash.saxelo6Q.dpuf
 Khi được đọc “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng của Người, đồng thời là bước ngoặt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. - See more at: http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=5&sitepageid=423#sthash.saxelo6Q.dpuf